CHƯƠNG 4
KIẾN NGHỊ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
4.1. Nhóm kiến nghị đối với Chính phủ và ngân hàng Nhà nước
4.1.1. Giải pháp từ Chính Phủ
Một là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là luật cạnh tranh nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực và đảm bảo sự bình đẳng cho các đối tượng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Riêng đối với ngành ngân hàng do là cầu nối, huyết mạch của nền kinh tế nên càng đòi hỏi tính minh bạch để đảm bảo sự an toàn và hiệu quả của toàn hệ thống nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Do đó cần xây dựng những văn bản pháp luật phù hợp với lãnh thổ Việt Nam dựa trên những chuẩn mực quốc tế. Trong đó, các văn bản pháp luật và các công cụ phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế vừa phải phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam để các NHTM chủ động thực hiện chính sách và vận hành công cụ điều tiết của NHNN cũng như các cơ quan chức năng nhằm phát triển bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, thông qua chức năng vai trò của nhà nước trong việc điều tiết khắc phục những khuyết tật của thị trường theo hướng tạo môi trường lành mạnh cho các ngân hàng hoạt động theo luật, không bao cấp cho NHTM, nhưng cũng không nên tạo ra những rủi ro cho ngân hàng bằng cơ chế chính sách hay các mệnh lệnh hành chính; sử dụng cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm cho các ngân hàng tham gia thị trường tuân thủ “luật chơi” đã qui định. Đây là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả. Cũng trên phương diện vĩ mô, cần phải cơ cấu lại hệ thống luật pháp tài chính, ngân hàng. Hiện Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước và các quy định khác đang được xem xét sửa đổi một cách cơ bản. Việc cơ cấu lại NHNN cũng nên được đặt ra theo lộ trình sửa đổi Luật NHNN, để đảm bảo cơ quan này hoạt động theo đúng chức năng của một ngân hàng trung ương hiện đại. Việc sửa đổi Luật các tổ
chức tín dụng cần đưa vấn đề cải cách quản trị vào một cách tương ứng nhằm cải cách, chuyển đổi mô hình quản trị tại các NHTM cổ phần theo mô hình quản trị hiên đại, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam cần tiến hành sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Số Lượng Các Ngân Hàng Có Hiệu Suất Tăng (Icr), Giảm (Dcr) Và Không Đổi Theo Quy Mô (Cons) Giai Đoạn 2008-2013.
- Hiệu Quả Kĩ Thuật Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Kết Quả Ước Lượng Mối Quan Hệ Thị Phần Huy Động, Vốn Chủ Sở Hữu Và Tăng Trưởng Tương Đối.
- Nhóm Kiến Nghị Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Kodde And Palm (1986), Wald Criteria For Jointly Testing Equality And Inequality Restrictions, Econometrica
- Schendel, D.e. And G.r. Patton (1978), A Simultaneous Equation Model Of Corporate Strategy.” Management Science.
Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.
(a) Sửa đổi Luật NHNN, Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác có liên quan để đảm bảo NHNN Việt Nam trở thành ngân hàng trung ương hiện đại, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh.
(b) Xây dựng, chỉnh sửa, bổ sung các quy định pháp luật ngân hàng về cấp phép hiện diện thương mại, về tổ chức, hoạt động, quản trị, điều hành của các tổ chức tín dụng kể cả trong và ngoài nước hướng tới nguyên tắc không phân biệt đối xử, phù hợp với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO, các quy định pháp luật cần tuân thủ nguyên tắc minh bạch hoá và có thể dự báo. NHNN hiện đang dự thảo Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động của NHTM cổ phần, Thông tư hướng dẫn Nghị định 22 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt nam, trong đó sẽ cụ thể hoá các cam kết liên quan đến việc thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt nam. Nghị định về việc tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại của Việt nam cũng đang trong quá trình dự thảo. Để đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, NHNN cũng sẽ xây dựng mới Luật Bảo hiểm Tiền gửi và Luật Giám sát An toàn Hoạt động Ngân hàng.
(c) Rà soát danh mục các dịch vụ tài chính - ngân hàng theo Phụ lục về dịch vụ tài chính – ngân hàng của GATS để xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định, đảm bảo các tổ chức tín dụng được thực hiện đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng theo GATS và thông lệ quốc tế;
(d) Nghiên cứu xây dựng khung pháp lý cho các mô hình tổ chức tín dụng mới, các tổ chức có hoạt động mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức tín dụng (công ty xếp hạng tín dụng, công ty môi giới tiền tệ) nhằm phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng. Các Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính, công ty tài chính sẽ được ban hành mới thay thế cho các văn bản pháp quy cũ về vấn đề này.
(e) Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối, cải cách hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế. Hoàn thiện các quy định về thanh toán không dùng tiền mặt.
(f) Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng mới (quản lý ngân quỹ, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ uỷ thác, các sản phẩm phái sinh, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thuê mua tài chính…).
Hai là, xây dựng lại vai trò của Ngân hàng Nhà nước để NHNN độc lập với mối quan hệ với Chính phủ, từ đó NHNN sẽ có vị thế trong việc xây dựng và vận hành chính sách tiền tệ hiệu quả. Đảm bảo mục tiêu NHNN là một ngân hàng trung ương thực sự, độc lập về mặt tổ chức, nhân sự , đảm bảo khả năng quản trị điều hành và là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế.
Một số kiến nghị cụ thể trong vấn đề cải tổ hệ thống ngân hàng:
(a) Việt Nam hiện nay đang được cho là có quá nhiều ngân hàng và dẫn tới tình trạng khó quản lý và một số quan điểm cho rằng đây là nguyên nhân dẫn tới bất ổn trong nền kinh tế. Nguyên nhân chính vẫn là việc Việt nam chưa đưa ra những biện pháp hữu hiệu trọng việc quản lý các ngân hàng để tránh những tác động xấu từ việc kinh doanh không hiệu quả của các ngân hàng tới nền kinh tế. Một trong những việc cần nghiên cứu là xây dựng những giải pháp hợp lý cho việc phá sản các tổ chức tài chính. Nếu chúng ta cứ phải nuôi một con bệnh yếu kém mãi thì đương nhiên tốn kém hơn nhiều so với chi phí để mai táng khi con bệnh chết hẳn, phá sản không phải là điều gì xấu, nghiên cứu cách thức để xây dựng một hệ thống sao cho việc phá sản các tổ chức tài chính không ảnh hưởng lớn và mang tính dây truyền tới
nền kinh tế mới là một vấn đề cần suy nghĩ. Ngay cả các nước phát triển cũng đang phải cải tổ hệ thống tài chính để tránh tình trạng “ quá lớn để sụp đổ”. Việt nam chưa có thông lệ và giải pháp cho việc phá sản ngân hàng, nên dẫn tới tình trạng bất cứ ngân hàng nào có nguy cơ phá sản cũng cần được giải cứu, điều này tạo ra những sự không bình đẳng giữa các doanh nghiệp, khi một doanh nghiệp tư nhân phá sản thì không được giải cứu, còn ngân hàng thì lại đươc giải cứu. Cần phải nghiên cứu để việc phá sản được diễn ra một cách bình thường và không gây hệ lụy lớn tới xã hội.
(b) Quan tâm tới các luật lệ và quy định đảm bảo sự công bằng giữa các bên tham gia vào hệ thống tài chính: Ngân hàng, người gửi tiền, doanh nghiệp. Thực chất thì giới tài chính được lợi khá nhiều từ vai trò trung gian của họ. Tất cả dòng tiền giao dịch đều chảy qua hệ thống tài chính và họ đã có những quyền lực khá lớn trong việc nắm được những dòng tiền này, mặc dù đây là tiền của người dân và doanh nghiệp gửi vào sau đó lại được phân bổ lại cho những người dân và doanh nghiệp có nhu cầu. Ngân hàng có những công cụ và cách thức để đẩy những khó khăn cho doanh nghiệp và người dân khi họ nắm toàn bộ dòng tiền trong xã hội. Những quy tắc và luật lệ đưa ra đối với hệ thống tài chính luôn phải nghiêm ngặt và đảm bảo quyền lợi chặt chẽ của các bên, không thể để tình trạng giới tài chính làm giàu dựa vào cả sự khủng hoảng và không chia sẻ bớt gánh nặng xã hội. Các thiệt hại, rủi ro thì luôn đẩy về phía người dân và doanh nghiệp.
(c) Đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh trong hệ thống tài chính. Cạnh tranh bình đẳng và lạnh mạnh luôn là động lựa cho sự phát triển xã hội. Những cá thể yếu sẽ bị đào thải khỏi môi trường. Tuy nhiên, sự cạnh tranh không lành mạnh sẽ ngược lại gây phương hại cho sự phát triển môi trường chung và tạo điều kiện cho những cá thể yếu lấn át những cá thể mạnh. Vai trò của Ngân hàng nhà nước như người trọng tài để đảm bảo các quy luật cạnh tranh này diễn ra một cách bình đẳng và có lợi cho xã hội. Hướng tới việc sử dụng các công cụ thị trường để quản lý ngân hàng, và sử dụng những quy luật thị trường để tạo ra hệ thống tài chính lành mạnh.
Ba là, Chính phủ cần tăng cường vị thế tài chính của NHNN Việt Nam thông qua việc tăng cường tự chủ tài chính; minh bạch và công khai để đảm bảo là ngân hàng của Chính phủ và là ngân hàng của các ngân hàng.
(a) Hoàn thiện và đưa vào thực hiện các tiêu chuẩn quản trị mới, các quy định về an toàn và phòng tránh rủi ro theo hướng tiếp cận nhanh thông lệ quốc tế; tăng cường vai trò giám sát của NHNN trong việc thực hiện các tiêu chuẩn này.
(b) Xây dựng cơ chế, chính sách để những ngân hàng thương mại có đủ điều kiện phát triển nhanh và cạnh tranh có hiệu quả trong nước và quốc tế; đồng thời, khuyến khích các ngân hàng mở rộng địa bàn hoạt động phục vụ nông nghiệp và nông thôn.
(c) Thực hiện cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước, nâng cao tiềm lực tài chính, khả năng quản trị, chất lượng các dịch vụ, sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động để ngân hàng thương mại Nhà nước thực sự làm nòng cốt trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cả nước.
(d) Bổ sung hoàn thiện thể chế để các ngân hàng thương mại cổ phần nâng cao chất lượng quản trị, hoạt động minh bạch, thực sự là ngân hàng đại chúng; quy định mức vốn tối thiểu và lộ trình thực hiện phù hợp với quy mô và địa bàn hoạt động.
(e) Xây dựng phương án xử lý cụ thể để giảm nhanh các ngân hàng yếu kém kéo dài theo các phương án thích hợp với chi phí ít nhất, bảo đảm an toàn hệ thống, không làm ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người gửi tiền và xử lý nghiêm những cá nhân có sai phạm.
(f) Kiện toàn và phát huy hiệu quả hoạt động của tổ chức tín dụng ở nông thôn. Việc thành lập mới các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính, kể cả thành lập mới các hợp tác xã tín dụng ở địa bàn nông thôn phải được thẩm định chặt chẽ, theo đúng quy định của pháp luật.
(g) Phối hợp có hiệu quả việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng với việc cơ cậu lại và phát triển mạnh các phân khúc khác các thị trường tài
chính như thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu, thị trường bảo hiểm và các quỹ đầu tư theo những tiêu chuẩn quản lý phù hợp với thông lệ quốc tế để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế; thực hiện công khai, minh bạch và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các định chế tài chính này.
Bốn là, Chính phủ cần thực hiện tái cấu trúc triệt để và toàn diện đối với đầu tư công và các doanh nghiệp nhà nước để loại bỏ bớt các dự án kém hiệu quả nhằm giảm tốc độ tăng nợ công và gánh nặng các doanh nghiệp nhà nước yếu kém. Về cơ bản và lâu dài, đây cũng là cơ hội để tăng đầu tư của tư nhân, thực hiện việc chuyển đổi mô hình phát triển, cơ cấu lại vốn đầu tư xã hội, nhằm phát triển đất nước một cách bền vững. Để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ngăn chặn suy giảm kinh tế và thâm hụt ngân sách, tạo việc làm, chúng ta cần xây dựng và duy trì mối quan hệ hợp lý giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân.Chẳng hạn, sự gắn kết giữa cắt giảm đầu tư công với thúc đẩy đầu tư tư nhân chưa được xem xét và đặt trong mối quan hệ tương tác biện chứng, trong đó cắt giảm đầu tư công là quá trình thực hiện trong ngắn hạn, trực tiếp và trực diện, còn thúc đẩy đầu tư tư nhân cần xem xét trong một thời gian dài với các biện pháp tác động gián tiếp cùng với cơ chế, chính sách đồng bộ. Bên cạnh đó, Chính phủ cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát để giảm thiểu sự thất thoát lãng phí, tối thiểu hóa chi phí quản lý, ngăn ngừa tham nhũng và tiêu cực.
Năm là, cần phải thay đổi thể chế để các tổ chức tín dụng quốc tế có thể mua lại, sáp nhập hoặc gia tăng sở hữu vốn cổ phần để đẩy nhanh xử lý nợ xấu của các ngân hàng. Để thực hiện điều này Chính phủ cần mở rộng room vốn ngoại với các ngân hàng yếu, việc nới room có thể tùy theo từng ngân hàng cụ thể đến mức tối đa nếu cần thiết. Với hệ thống ngân hàng còn non trẻ như hiện tại khi các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần sẽ góp phần đóng góp cổ tài chính, hỗ trợ năng lực quản trị ,quản lý rủi ro, thanh khoản và mua ban nợ xấu. Từ đó có thể giúp các ngân hàng Việt Nam tái cấu trúc, đẩy nhanh xử lý nợ xấu, thúc đẩy đầu tư công nghệ, nâng cao khả năng quản trị, thay đổi tư duy và phương thức hoạt động dẫn đến tăng hiệu quả hoạt động. Song song với biện pháp mở rộng room thì Chính phủ cần tạo
môi trường đầu tư hấp dẫn với các cơ chế chính sách đơn giản nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó cũng có thể nghiên cứu chứng khoán hóa các khoản nợ xấu dựa trên việc áp dụng thành công của các nước trên thế giới. Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 2 phương pháp. Thứ nhất, nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, trong vai trò đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính cộng đồng hơn nữa, phối hợp với doanh nghiệp để xử lý nợ xấu. Đồng thời, các ngân hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý mua bán nợ, công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ để tham gia chủ động vào tiến trình chứng khoán hóa.
4.1.2. Giải pháp từ Ngân hàng Nhà nước
Một là, Ngân hàng Nhà nước cần tích cực, chủ động giám sát hoạt động của hệ thống theo nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế và không can thiệp sâu bằng các mệnh lệnh hành chính. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực thể chế, rà soát các cơ chế chính sách theo hướng thị trường, tạo môi trường lành mạnh cho hệ thống ngân hàng. Như là: Xây dựng khung pháp lý về thành lập ngân hàng theo hướng một cách chặt chẽ, hợp lý; sửa đổi; cho phép ngân hàng được phép tịch biên tài sản; nhanh chóng áp dụng các chuẩn mực về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro theo chuẩn quốc tế; rà soát vốn thực có của các NHTM để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II.
Trong đó, các văn bản pháp luật và các công cụ phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế vừa phải phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam để các NHTM chủ động thực hiện chính sách và vận hành công cụ điều tiết của NHNN cũng như các
cơ quan chức năng nhằm phát triển bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, thông qua chức năng vai trò của nhà nước trong việc điều tiết khắc phục những khuyết tật của thị trường theo hướng tạo môi trường lành mạnh cho các ngân hàng hoạt động theo luật, không bao cấp cho NHTM, nhưng cũng không nên tạo ra những rủi ro cho ngân hàng bằng cơ chế chính sách hay các mệnh lệnh hành chính; sử dụng cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm cho các ngân hàng tham gia thị trường tuân thủ “luật chơi” đã qui định. Đây là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả.
Hai là, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng để giảm thiểu chi phí hoạt động cho các ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước với vai trò là người quản lý trực tiếp hoạt động của hệ thống ngân hàng, NHNN cần giúp đỡ, tư vấn để các ngân hàng phát triển hệ thống thông tin hiệu quả, minh bạch, chất lượng, uy tín và bền vững.
Ba là, Ngân hàng Nhà nước cần phải đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Đối với các ngân hàng thương mại yếu kém, cần thực hiện sáp nhập, hợp nhất. Đặc biệt, NHNN cần đưa ra lộ trình cụ thể cần đạt được sau tái cấu trúc để các ngân hàng hoạt động hiệu quả.
Đối với các NHTM Nhà nước, cần tiếp tục giảm tỷ trọng phần vốn Nhà nước ở mức hợp lý, bằng việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu tại mỗi ngân hàng lên tùy theo qui mô của từng ngân hàng. Tuy nhiên, việc nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài sẽ có thể dẫn đến khả năng bị thâu tóm của các ngân hàng tăng lên. Vì vậy, NHNN cần xây dựng các biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng này bằng cách tập trung xây dựng các ngân hàng lớn có đủ năng lực cạnh tranh quốc tế với đầy đủ các tiêu chuẩn quản trị rủi ro quốc tế. Bên cạnh đó, cần giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ngân hàng, buộc các ngân hàng phải minh bạch trong kinh doanh, chịu trách nhiệm về sự tồn tại và phát triển của chính ngân hàng. nhiều yếu tố. Thực trạng trên cho thấy, khu vực ngân hàng Việt Nam đang đứng trước yêu cầu về tái cơ cấu mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, do khu vực ngân hàng là một cấu phần quan trọng của nền kinh tế nên việc cơ cấu lại cần