Nhóm Kiến Nghị Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


được nhìn nhận trên phương diện tổng thể. Do đó, nội dung và trọng tâm cơ cấu lại khu vực ngân hàng Việt Nam hiện nay không chỉ từ góc độ vi mô (từng ngân hàng) mà cả từ góc độ vĩ mô (Nhà nước/Chính phủ).

Trước tiên, trên phương diện vĩ mô, vấn đề mục tiêu tăng trưởng kinh tế cũng cần phải được “cơ cấu lại” theo hướng mới là không nên đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao bằng mọi giá mà thay vào đó là một mức tăng trưởng hợp lý, bền vững. Khi đó áp lực tăng trưởng kinh tế không đè nặng lên hệ thống ngân hàng, làm cho khu vực này dễ tổn thương và kém hiệu quả. Một số cơ cấu vĩ mô khác cũng cần được cơ cấu lại để đảm bảo phát triển và tăng trưởng bền vững như cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu ngành sản xuất, cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngân sách…

Về phương diện vi mô, các ngân hàng cần tiến hành cơ cấu lại thị trường, sản phẩm và cơ cấu tài sản cho phù hợp với năng lực quản lý của mình, đảm bảo phát triển hiệu quả và bền vững. Với cơ cấu tài sản và sản phẩm như hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam rất dễ bị tổn thương (như năm 2008). Đối với các NHTM Nhà nước vừa mới cổ phần hóa cần tập trung cải thiện quản trị tại ngân hàng này theo chuẩn quốc tế vì nơi đây tập trung nguồn lực lớn của Nhà nước, coi đây là hình mẫu về quản trị ngân hàng hiện đại ở Việt Nam.

Bốn là, Ngân hàng Nhà nước cần lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng trước hết và cần thiết phải giải quyết triệt để nợ xấu. NHNN chỉ đạo sát sao buộc các NHTM cơ cấu lại khoản nợ xấu để sử dụng các công cụ giảm nợ xấu. Bên cạnh đó, giám sát quan hệ sở hữu chéo giữa các TCTD với các tổng công ty, tập đoàn kinh tế. Đặc biệt, cần nâng cao vai trò của cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao an toàn cho toàn hệ thống.

Cần quan tâm tới 4 trong 10 giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng do Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) đề xuất: Giải pháp đầu tiên là các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này sẽ giúp NHTM nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng. Thứ hai, các ngân hàng cần có chính sách


tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai đoạn khó khăn này. Cách thức này giúp giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng mức trích lập dự phòng tỷ lệ nợ xấu. Thứ ba, ngân hàng cần tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng lên 40%. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài lên mức 25% hoặc 30% vốn điều lệ. Thứ tư, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiểm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những ngân hàng yếu kém.

4.2. Nhóm kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trong nghiên cứu của chương trước có thể thấy, các ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng các nguồn lực còn nhiều lãng phí từ đó hiệu quả hoạt động của các ngân hàng chưa đạt tối ưu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

Như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động từ đó đẩy cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cần đẩy mạnh việc thay đổi theo chiều sâu hoạt động của các ngân hàng.

4.2.1. Phát triển theo định hướng thị trường mục tiêu

Lý thuyết cấu trúc cạnh tranh ngành với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay - 17

Kết quả nghiên cứu về mặt định lượng về hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ ra rằng số lượng các ngân hàng đạt hiệu suất giảm theo quy mô chiếm phần lớn. Điều này thể hiện các ngân hàng đang hoạt động không tối ưu hóa quy mô của mình dẫn đến hiệu quả đạt được chưa cao. Do đó, đối với các ngân hàng đạt hiệu suất giảm theo quy mô cần phải giảm quy mô hoạt động, còn đối với ngân hàng đạt hiêu suất tăng theo quy mô thì cần tăng quy mô để nâng cao hiệu quả hoạt động từ đó tăng cường năng lực cạnh tranh. Một trong những hình thức để thay đổi quy mô là xác định thị trường mục tiêu để thay đổi quy mô giảm thiểu chi phí.

Trong giai đoạn vừa qua một trong những yếu kém đáng chú ý nhất của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam là sự tăng trưởng một cách không cân đối trong nhiều năm. Sự mất cân đối này cần được nhìn nhận cả trên phương diện vĩ mô và vi mô. Sự tăng trưởng nhanh về quy mô và vốn trong khi các thiết chế quản lý chưa theo kịp là các vấn đề nội tại của khu vực này.


Mỗi một ngân hàng có quy mô về nguồn vốn và chi nhánh khác nhau do đó không phải thị trường nào cũng tham gia thì sẽ đem lại hiệu quả. Do đó, các ngân hàng thương mại cần xác định rõ phân khúc thị trường mục tiêu để tập trung phát triển nhằm tối ưu hóa các yếu tố đầu vào. Có thể thấy, khi xác định được thị trường mục tiêu ngân hàng sẽ chuyên tâm hơn, đầu tư hiệu quả tập trung mà không bị phân tán các nguồn lực.

4.2.2. Nâng cao hiệu quả quản trị trong ngân hàng

Nâng cao văn hóa quản trị rủi ro và năng lực giám sát ngân hàng, năng lực quản trị ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng có cơ cấu quản trị doanh nghiệp vững mạnh là hết sức quan trọng vì ngân hàng có vai trò cốt yếu trong nền kinh tế của mỗi Quốc gia và được coi là ngành chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ nhất. Vì vậy, quản trị rủi ro cần phải làm rõ: mức độ chấp nhận rủi ro đến đâu, sự phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính của ngân hàng cũng như chiến lược chung. Để thực hiện có hiệu quả mỗi ngân hàng phải nâng cao quản trị rủi ro nội bộ bằng cách kiểm tra sức chịu đựng. Đây là công cụ quản trị rủi ro để đánh gía mức độ ảnh hướng đối với giá trị danh mục tài sản của một hay nhiều sự kiện có thể được coi là ngọại lệ nhưng vẫn có khả năng xảy ra. Đây là công cụ khá hữu dụng được ngân hàng nhiều quốc gia áp dụng, nhưng ở Việt Nam còn khá mới mẻ, vì thế, rất cần phải nghiên cứu và vận dụng một cách hợp lý đối với mỗi ngân hàng thương mại Việt Nam. Ngoài ra, cũng cần tăng cường quản trị, quản lý đối với cả hệ thống ngân hàng trên phương diện vĩ mô và vi mô. Đến nay, vốn tự có của các NHTM đã được cải thiện đáng kể (hầu hết các NHTM có tỷ lệ an toàn vốn đạt và vượt 8%). Tuy nhiên vấn đề quản trị và quản lý đã và đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại. Vấn đề quản trị cần được cải thiện để đảm bảo các NHTM cổ phần hoạt động theo đúng nguyên tắc của một công ty cổ phần và công ty đại chúng: chế độ công bố thông tin, báo cáo tài chính; quyền của các cổ đông nhỏ lẻ; vấn đề chuyển đổi NHTMNN sau cổ phần hóa sang công ty cổ phần thực sự… Về mặt quản lý, cải thiện quản lý rủi ro thanh khoản (như hệ thống ALCO) cần được đặt ra như một yêu cầu bắt buộc đối với các NHTM hiện nay để đảm bảo các NHTM có thể chịu đựng được các cú sốc.


4.2.3. Tăng cường năng lực tài chính và tự chủ tài chính

Năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam không cao so với các nước trong khu vực. Và cũng từ kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy khả năng sinh lợi của ngân hàng có quan hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động vì vậy các ngân hàng cần chủ động hơn trong việc nâng cao năng lực tài chính. Do vậy, để đảm bảo các ngân hàng thương mại có đủ năng lực tài chính đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả theo chuẩn mực quốc tế thì các ngân hàng phải tăng vốn tự có, chất lượng tài sản, thanh khoản, khả năng sinh lời xử lý dứt điểm nợ xấu và lành mạnh hóa báo cáo tài chính. Các ngân hàng thương mại cần đảm bảo tăng cường mức vốn chủ sở hữu phù hợp với quy mô tài sản trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ mức trên 12%, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3% và các chuẩn mực theo Basel II và III. Đối với các ngân hàng, uy tín là đặc biệt quan trọng do đó cần phải xây dựng lòng tin từ phía khách hàng để thu hút nguồn vốn dưới nhiều hình thức khác nhau. NHNN ban hành thông tư 07 về kiểm soát đặc biệt đối với các ngân hàng. Thông tư này nêu rõ NHNN sẽ công khai danh tính đơn vị thuộc diện kiểm soát đặc biệt do mất khả năng chi trả, nguy cơ mất an toàn hệ thống. Do vậy với các ngân hàng yếu kém cần chủ động đẩy mạnh liên doanh, liên kết trong hệ thống ngân hàng để tận dụng nguồn vốn, trình độ kỹ thuật và năng lực quản lý từ các nước tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, trong việc lựa chọn các đối tác chiến lược cần lựa chọn các đối tác phù hợp với mục tiêu của từng ngân hàng. Cùng với mục tiêu an toàn, hiệu quả cần xem xét tiến hành sát nhập các ngân hàng yếu kém để nâng cao vị thế đủ năng lực cạnh tranh trong môi trường hội nhập quốc tế.

Các ngân hàng thương mại phải tự chủ tài chính và hoạt động kinh doanh để phát huy khả năng độc lập, sáng tạo vượt qua những khó khăn thách thức trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Việc tự chủ tài chính sẽ giúp các ngân hàng chủ động trong thực hiện chính sách tăng trưởng vốn và đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động toàn hệ thống ngân hàng.


4.2.4. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, xây dựng văn hóa kinh doanh

Một là, đứng trước những thách thức từ nội tại và bên ngoài sau khi gia nhập WTO, các ngân đối mặt với nhiều thách thức buộc phải đổi mới để tồn tại và phát triển. Trong khi đó khoa học công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng thương mại Việt Nam chưa cao sẽ dẫn đến bất lợi trong giảm thiểu chi phí về mặt thời gian và thu hút thị phần về phía mình. Trong khi đó, với sự gia nhập của các ngân hàng nước ngoài với lợi thế về bề dày kinh nghiệm và loại hình sản phẩm dịch vụ, tiện ích. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải sớm hiện đại hóa ngân hàng, nhanh chóng cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh.

Hai là, xây dựng hệ thống thu thập dữ liệu đảm bảo thông tin cung cấp là tin cậy. Trong hoạt động ngân hàng, không phải mọi thông tin đều có thể công bố công khai. Nhưng càng minh bạch thông tin, đảm bảo tính cập nhật, độ chuẩn xác, sẽ càng củng cố được niềm tin của dân cư. Chỉ khi có được hệ thống thông tin minh bạch sẽ giảm bớt được tin đồn và khi năng lực bên trong của từng ngân hàng được cải tổ theo hướng chất lượng, uy tín thực sự, thì lòng tin giữa các doanh nghiệp, giữa ngân hàng và doanh nghiệp sẽ tốt lên.

Do đó cần nghiên cứu, áp dụng phần mềm ngân hàng linh hoạt, gọn nhẹ, đáp ứng các quy trình kinh doanh giúp các ngân hàng quản lý rủi ro tốt hơn và tận dụng được lợi thế cạnh tranh nhằm hỗ trợ các quy trình kinh doanh ngân hàng đặc thù, từ khâu giao dịch cho đến khâu xử lý thông tin. Chẳng hạn những dịch vụ mới từ SAP (Công ty phần mềm lớn nhất Châu âu) trực tiếp đáp ứng nhu cầu của các ngân hàng trên thị trường hiện nay, nhằm giúp ngân hàng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và quản lý để cắt giảm chi phí, dễ dàng tiếp cận và quản lý rủi ro một cách hiệu quả, ít tốn kém, đồng thời đẩy nhanh quá trình cung cấp những sản phẩm và dịch vụ mới nhằm duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh.

Những cải tiến đối với các dịch vụ ngân hàng tích hợp được thiết kế nhằm giúp các ngân hàng đạt được sự uyển chuyển xuyên suốt bộ máy tổ chức; tập trung tốt hơn vào việc cung cấp các sản phẩm và chương trình giá trị gia tăng cho khách


hàng; đáp ứng những nhu cầu luôn thay đổi về tuân thủ pháp lý; tận dụng tối đa các cơ hội phát triển mới; giúp đỡ các ngân hàng có được một hành trình rủi ro thấp; giảm thiểu chi phí hoạt động và cải thiện dịch vụ khách hàng.

Ba là, đối với khách hàng của các ngân hàng là tương đối đa dạng do đó để thu hút khách hàng: các ngân hàng cần xây dựng môi trường kinh doanh thân thiện giúp cho các khách hàng có thể gửi niềm tin vào ngân hàng. Không những vậy việc xây dựng môi trường hoạt động có văn hóa còn là động lực giữ chân nhân viên, thúc đẩy năng suất lao động, giảm thiểu chi phí vô ích của các ngân hàng.

4.2.5. Phát triển đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ theo hướng phát triển chiều sâu

Trong xu hướng hiện đại hóa ngân hàng, sự phát triển của sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng tích cực. Tuy nhiên vẫn còn manh mún và chưa đồng bộ, thêm vào đó việc tiến tới phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt buộc phải có chính sách phát triển thị trường thẻ để tạo tiện ích thu hút khách hàng.

Để hoàn thiện thị trường thẻ cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề sau:

Một là, NHNN tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý về thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và dịch vụ thẻ nói riêng một cách đầy đủ, đồng bộ để khuyến khích phát triển thanh toán thẻ.

Chính phủ cần dùng mệnh lệnh hành chính để bắt buộc các cơ sở bán hàng, dịch vụ có số vốn lớn, như các siêu thị, phải trang bị thiết bị thanh toán thẻ. Bên cạnh việc giảm bớt lưu thông bằng tiền mặt Chính Phủ còn quản lý được luồng tiền của các đơn vị kinh doanh từ đó giám sát chặt chẽ được các đơn vị kinh doanh.

Tuy nhiên, việc khách hàng Việt Nam đang theo thói quen sử dụng thanh toán bằng tiền mặt, nếu áp dụng thanh toán bằng dịch vụ thẻ cần phải tăng tính thuận tiện và tính phí phải hợp lý. Do đó các cơ quan chức năng cần quan tâm và xử lý đúng mức vấn đề thu phụ phí của khách hàng thanh toán thẻ qua POS theo đúng các quy định hiện hành.


Hai là, về phía các NHTM cần tập trung phát triển hệ thống máy ATM phù hợp về cả số lượng và đảm bảo chất lượng, hoạt động ổn định. Đồng thời tiếp tục phát triển và bố trí hợp lý, sắp xếp lại mạng lưới POS, đảm bảo hoạt động hiệu quả, thực chất.

Các NHTM cần đẩy mạnh phát triển hơn các tiện ích khi sử dụng thẻ, như phát triển các loại thẻ đa dụng, đa năng để thu phí khi đi xe buýt, taxi, phí cầu đường, mua xăng dầu, thanh toán tiền điện thoại, tiền nước, chi trả bảo hiểm xã hội... Ngoài ra, các NHTM cần phát triển dịch vụ hậu mãi như chăm sóc, bảo vệ lợi ích khách hàng tại các điểm chấp nhận thẻ, xử lý kịp thời các sự cố, yêu cầu tra soát, khiếu nại của khách hàng.

Ba là, trong giai đoạn đầu để khuyến khích tất cả các thành viên trên thị trường tham gia thanh toán không dùng tiền mặt, ngoài việc thúc đẩy đối với người tiêu dùng thì NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính để xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích về thuế đối với doanh số bán hàng hóa, dịch vụ thanh toán bằng thẻ qua POS. Điều này sẽ khuyến khích các đơn vị bán hàng tích cực chấp nhận thanh toán bằng thẻ vì nó sẽ mang lại lợi ích cho cả đơn vị bán hàng.

Bốn là, hoạt động ngân hàng quan trọng là phải tạo niềm tin cho khách hàng thì khách hàng mới sử dụng các sản phẩm dịch vụ của mình. Không những thế ngành ngân hàng đòi hỏi việc ứng dụng công nghệ hiện đại, từ đó xuất hiện tội phạm công nghệ cao. Chính vì vậy, ngành ngân hàng cần chủ động và tăng cường phối hợp với Bộ Công an trong việc phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán; thiết lập các kênh trao đổi thông tin để kịp thời phối hợp, xử lý nhiều vụ việc gian lận, lừa đảo trong thanh toán thẻ, thanh toán điện tử, góp phần giảm bớt rủi ro trong thanh toán, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.

Năm là, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiệp vụ phát hành, thanh toán thẻ để có thể kết nối các hệ thống chuyển mạch, thanh toán thẻ để thẻ nội địa có thể dễ dàng được sử dụng và chấp nhận thanh toán ở nước khác. Bên cạnh đó, cần sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành chức năng, sự ủng hộ của đông đảo người dân, các doanh nghiệp và tổ chức. Điều đó sẽ thúc đẩy dịch vụ tài chính phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững nền kinh tế.


4.2.6. Nâng cao năng lực cán bộ công nhân viên

Hoạt động của ngân hàng không đạt hiệu quả tối ưu một phần do chi phí hoạt động cao. Trong đó chi phí cho nguồn nhân lực là tương đối lớn mà hiệu quả sử dụng không được cao. Do đó, việc nâng cao năng lực cho cán bộ công nhân viên cũng là một biện pháp giảm thiểu chi phí để nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

4.2.6.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên.

Đối với ngân hàng thì đội ngũ cán bộ, nhân viên là lực lượng quyết định tới hệu quả kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Để thực hiện điều này cần phải xây dựng chiến lược từ tuyển dụng đến đào tạo cán bộ, nhân viên. Về tuyển dụng: cần xây dựng quy trình tuyển dụng nhân viên khoa học, chính xác và hợp lý phù hợp với yêu cầu của ngân hàng và xu hướng phát triển trong giai đoạn hội nhập. Về hoạt động đào tạo: Định kỳ tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ theo định hướng công việc. Bên cạnh đó, cần chú trọng tới đội ngũ cán bộ, nhân viên trẻ có năng lực để đào tạo chuyên sâu nhằm tìm kiếm đội ngũ nòng cốt cho ngân hàng. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ và các phong trào để tạo sân chơi cho cán bộ nhằm giải tỏa áp lực công việc. Cần xây dựng các quỹ khen thưởng để động viên cán bộ nhằm khuyến khích phát triển và đóng góp cho ngân hàng. Tuy nhiên, đi kèm với chế độ khen thưởng cần nâng cao tính kỷ luật để cán bộ, nhân viên tự củng cố vai trò trách nhiệm của mình với công việc.

4.2.6.2. Nâng cao khả năng giao tiếp của cán bộ, nhân viên

Ngoài trình độ chuyên môn và các sản phẩm dịch vụ tiện ích để thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Đối với ngân hàng do khách hàng rất đa dạng từ đó văn hóa kinh doanh và cách ứng xử của cán bộ với khách hàng là yếu tố quyết định tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Như vậy, cần phải xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh trong ngân hàng. Và một trong những yếu tố quyết định là nâng cao khả năng giao tiếp của cán bộ, nhân viên. Để thực hiện điều này cần: đặt khách hàng lên trên với tôn chỉ “ khách hàng là thượng đế”, cán bộ ngân hàng phải luôn luôn lắng

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí