Thứ ba quản lý tài sản phá sản là một hoạt động rất phức tạp vì thế nó đ i hỏi trình độ chuy n môn năng lực của chủ thể quản lý tài sản phá sản trong việc xác định hối tài sản phá sản cũng như thực thi các biện pháp quản lý tài sản phá sản.
Thông thường, các doanh nghiệp thường kinh doanh rất nhiều ngành nghề, đầu tư nhiều lĩnh vực cũng như tham gia vào các hoạt động kinh doanh đa dạng và phức tạp. Hơn nữa, có nhiều doanh nghiệp hoạt động theo mô hình đối nhân, tài sản của doanh nghiệp còn gắn liền với tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, do đó, trong nhiều trường hợp, các chủ thể quản lý sẽ phải mất rất nhiều thời gian để xác định khối tài sản phá sản cũng như các biện pháp quản lý tài sản phá sản phù hợp.
Thứ tư quản lý tài sản phá sản phải đảm bảo tính minh bạch công
hai ịp thời bảo vệ quyền và lợi ích của các b n li n quan.
Như đã phân tích ở trên, quản lý tài sản phá sản là quá trình quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích của nhiều bên liên quan, do đó, các trình tự, thủ tục của quá trình quản lý tài sản phá sản phải đảm bảo tính minh bạch, công khai, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích của các bên có liên quan.
Thứ năm quản lý tài sản phá sản phải thực sự linh hoạt nhằm tối đa hóa lợi ích của chủ nợ và con nợ và b n thứ ba [96 tr.22].
Sau khi bắt đầu thủ tục phá sản, người quản lý tài sản phá sản cần phải được trao đầy đủ thẩm quyền để thực hiện các biện pháp kịp thời để bảo toàn và bảo vệ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ và hoạt động kinh doanh của con nợ. Các biện pháp quản lý tài sản phá sản phải thực sự linh hoạt và minh bạch. Khi cần thiết, các biện pháp đó cho phép tài sản phá sản được linh hoạt chuyển nhượng nhằm tối đa hóa lợi ích của các bên liên quan. Quyền lợi của bên thứ ba cần được bảo vệ trong suốt quá trình diễn ra thủ tục phá sản.
2.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật quản lý tài sản phá sản
2.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý tài sản phá sản
Là một bộ phận không thể tách rời pháp luật về phá sản, pháp luật về quản lý tài sản phá sản cũng có chung mục tiêu là phải đưa ra các quy định nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khả năng phục hồi, tổ chức lại nhằm duy trì hoạt động của mình; nếu trong trường hợp mất khả năng thanh toán không có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh thì các quy định của pháp luật phá sản nói chung phải bảo đảm một trật tự pháp lý về thủ tục phá sản công khai, minh bạch, kịp thời nhằm mục tiêu là bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan, hạn chế ở mức thấp nhất các hậu quả bất lợi do việc phá sản gây ra cho các chủ thể đó. Trong đó, pháp luật về quản lý tài sản phá sản là một bộ phận quan trọng của pháp luật về phá sản. Thực tế cho thấy ở hầu hết các nơi trên thế giới, luật phá sản đều có quy định là một khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản, toàn bộ tài sản của con nợ này sẽ bị giám sát và quản lý đặc biệt vì các lý do chủ yếu như sau: Thứ nhất, việc bảo toàn tài sản của con nợ giúp tránh được tình trạng tẩu tán và cất giấu tài sản, một khi con nợ đã tuyệt vọng, có thể làm mọi cách để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Thứ hai, việc bảo toàn tài sản còn để tập trung vật lực cho con nợ, giúp con nợ huy động tốt hơn các nguồn lực sẵn có để mưu cầu việc phục hồi. Thứ ba, việc bảo toàn tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ một khi toàn bộ tài sản đó được thanh lý để phân chia cho các chủ nợ nhằm bù đắp những khoản vay của con nợ. Như vậy, có thể hiểu, pháp luật về quản lý tài sản phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý tài sản phá sản.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Vấn Đề Lý Luận Về Quản Lý Tài Sản Phá Sản
- Quản lý tài sản phá sản theo pháp luật về phá sản ở Việt Nam hiện nay - 6
- Khái Niệm, Đặc Điểm Của Quản Lý Tài Sản Phá Sản
- Nhóm Các Quy Định Về Chủ Th I N Quan Đến Quản Tài Sản Phá Sản
- Nhóm Các Quy Định Về Các Biện Pháp Quản Lý Tài Sản Phá Sản
- Vai Trò, Ý Nghĩa Của Pháp Luật Về Quản Lý Tài Sản Phá Sản
Xem toàn bộ 214 trang tài liệu này.
2.2.2. Nội dung của pháp luật về quản lý tài sản phá sản
Pháp luật về quản lý tài sản phá sản bao gồm các nhóm quy định sau đây:
2.2.2.1. Nhóm quy định về phạm vi tài sản phá sản và các nguyên tắc xác định tài sản phá sản
Quá trình quản lý tài sản phá sản đòi hỏi trước hết phải xác định được các loại tài sản nào của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là tài sản phá sản. Xác định tài sản phá sản có vai trò quan trọng để bắt đầu các hoạt động quản lý tài sản phá sản. Mục đích của việc xác định tài sản phá sản là phải làm thế nào để xác định một cách chính xác, toàn diện, đầy đủ khối tài sản phá sản. Nhóm quy định về tài sản phá sản gồm các nội dung như các loại tài sản phá sản, tiêu chí, căn cứ xác định các loại tài sản được coi là tài sản phá sản. Các quốc gia khác nhau có các nguyên tắc và cách thức nhất định để xác định tài sản phá sản. Thông thường, việc xác định tài sản phá sản sẽ dựa vào các nguyên tắc sau đây:
+ Căn cứ vào thời điểm cụ thể trong thủ tục phá sản:
Có hai xu hướng điều chỉnh nguyên tắc này. Một số đạo luật phá sản thì giới hạn khối tài sản phá sản chỉ được thừa nhận đến thời điểm mở thủ tục phá sản, số còn lại thì lại xác định khối tài sản không chỉ tính đến thời điểm mở thủ tục phá sản mà kể cả trong quá trình giải quyết phá sản, đặc biệt là các tài sản có thể được tạo ra trong quá trình giải quyết phá sản. Thậm chí trong một số trường hợp, tài sản phá sản còn gồm các khoản lợi nhuận, các tài sản mà doanh nghiệp sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nếu các giao dịch đó bị coi là vô hiệu. Vì thế, với những tài sản xuất hiện sau ngày tòa án tuyên bố phá sản sẽ không được tính vào phạm vi khối tài sản phá sản, trừ trường hợp con nợ chịu trách nhiệm vô hạn.
Ví dụ, Luật Phá sản Nhật Bản quy định rằng những tài sản có được sau khi tuyên bố phá sản thì không được tính vào khối tài sản của doanh nghiệp
mà sẽ được xếp vào loại tài sản mở rộng vì họ cho rằng, nếu đưa loại tài sản này vào khối tài sản phá sản thì sẽ tạo ra sự phức tạp và khó khăn trong tính toán, đồng thời, có thể tạo ra tính không công bằng trong việc xác định quyền và trách nhiệm của các bên liên quan đến khối tài sản phá sản đã được xác định trước đó. Cụ thể hơn, pháp luật phá sản Nhật Bản coi tài sản con nợ có được trong giai đoạn giữa thời điểm nộp đơn yêu cầu và ngày ban hành quyết định giải quyết đơn sẽ thuộc về khối tài sản phá sản, còn tài sản con nợ có được sau giai đoạn đó thì được miễn trừ khỏi khối tài sản phá sản vì họ cho rằng điều đó là cần thiết để cung cấp cho con nợ một khởi đầu mới. Trong khi đó, pháp luật phá sản của Hoa Kỳ lại quy định tài sản phá sản bao gồm cả những tài sản có được trong vòng 180 ngày kể từ ngày có đơn khởi kiện do thừa kế, được chia, theo hợp đồng bảo hiểm hay thỏa thuận nào đó. Luật phá sản của Đức cũng ghi nhận theo hướng tài sản phá sản không chỉ toàn bộ tài sản của con nợ tại thời điểm tòa án ra quyết định thụ lý mà còn bao gồm cả các tài sản phát sinh sau thời điểm thụ lý.
+ Căn cứ vào phạm vi không gian của tài sản (nguyên tắc hiệu lực lãnh thổ):
Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự hình thành của các công ty đa quốc gia và dòng vốn đầu tư giữa các quốc gia dẫn đến việc các doanh nghiệp phá sản hoàn toàn có thể có tài sản ở nước ngoài. Điều này đặt ra thách thức cho việc xác định và quản lý tài sản của doanh nghiệp phá sản mà tài sản đó ở nước ngoài.
Tài sản của con nợ có thể ở ngoài quốc gia nơi diễn ra thủ tục phá sản và tài sản này có thể là một phần của tài sản phá sản, tuy nhiên nó đặt ra vấn đề phá sản xuyên biên giới. Tài sản này có thể là đặc biệt quan trọng trong việc tái cấu trúc, do đó nếu loại trừ tài sản ở nước ngoài có thể ảnh hưởng đáng kể tới thành công của quá trình đó. Một số luật phá sản tiếp cận theo hướng phải có một thủ tục phá sản đơn lẻ tại nơi mà con nợ có trụ sở chính hoặc nơi đăng ký áp dụng cho các tài sản của con nợ dù ở bất kỳ đâu. Cách
tiếp cận này từ ý tưởng rằng nhà nước sẽ chấp thuận các yêu cầu khởi kiện theo luật phá sản của một quốc gia khác. Tuy nhiên, các luật phá sản khác lại dựa trên cách tiếp cận hạn chế phạm vi áp dụng của luật phá sản theo khu vực địa lý bởi quốc gia ban hành ra đạo luật phá sản đó (tiếp cận theo lãnh thổ). Cách tiếp cận này yêu cầu các thủ tục khác nhau ở mỗi nước nơi mà con nợ có tài sản theo chi nhánh hoặc trụ sở của con nợ. Một cách tiếp cận khác là nhà nước tuyên bố áp dụng luật của mình có phạm vi quốc tế nhưng lại không thừa nhận áp dụng quốc tế tương tự luật của quốc gia khác. Sự đa dạng trong các cách tiếp nhận tạo ra sự không ổn định và không hiệu lực về tính hiệu quả khi áp dụng luật phá sản quốc gia. Tuy nhiên, khi ngày càng có sự khác nhau giữa các đạo luật phá sản lại càng làm ít lý do hơn để duy trì cách tiếp cận lãnh thổ, theo đó, ngày càng có nhiều mong muốn về một luật phá sản mà tài sản phá sản có thể là tài sản của con nợ ở bất kỳ đâu. Luật mẫu của UNCITRAL về luật phá sản xuyên biên giới đã thiết lập một cơ chế cho việc hợp tác hiệu quả xuyên biên giới thông qua việc công nhận các quyết định của nước ngoài và tiếp cận với các quản tài viên nước ngoài đối với thủ tục tố tụng tại quốc gia nơi có tài sản [92].
Với nguyên tắc này hiện có hai xu hướng, một là chỉ thừa nhận các tài sản hiện nằm trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà không bao gồm các tài sản ở nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, Luật phá sản của Nhật Bản quy định rằng những tài sản nào ở ngoài phạm vi lãnh thổ Nhật Bản không được coi là bộ phận của tài sản phá sản vì họ cho rằng tài sản ở nước ngoài rất khó giám sát, đánh giá và thu hồi. Trong khi đó, pháp luật phá sản Đức ghi nhận các tài sản của con nợ ở nước ngoài cũng thuộc phạm vi của khối tài sản phá sản.
+ Căn cứ vào loại hình tài sản hoặc nguồn hình thành tài sản:
Tùy thuộc vào loại tài sản và nguồn hình thành tài sản sẽ xác định được các quy định pháp luật cho từng loài tài sản như cách xác định, các quy chế pháp lý về xác định quyền sở hữu tài sản, quản lý tài sản.
Đạo luật phá sản Mỹ coi tài sản phá sản được phản ánh trên sổ sách kế toán tại thời điểm mở thủ tục phá sản, trong khi Luật Phá sản Đức lại xác định tài sản dựa theo loại hình tài sản là động sản hay bất động sản, hữu hình hay vô hình. Luật Phá sản của Nhật Bản quy định rằng tài sản phá sản không nhất thiết phải nhìn thấy được và không nhất thiết phải được thể hiện trên sổ sách hoặc tài khoản của con nợ. Luật Mất khả năng thanh toán của Nga quy định rằng tất cả các tài sản (phần có) của con nợ thể hiện trong bảng cân đối kế toán hoặc các tài liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác định tài sản phá sản.
Luật Phá sản Hoa Kỳ quy định tài sản phá sản cũng bao gồm những tài sản mà Tín thác viên thu hồi được theo thẩm quyền do luật định trong các trường hợp như quyền xiết nợ (đại diện cho chủ nợ): Tín thác viên có quyền xiết nợ đối với các con nợ của doanh nghiệp mà không cần sự đồng ý của con nợ. Các tài sản có được từ những giao dịch ưu tiên trả nợ bị vô hiệu, khi đó, Tín thác viên có quyền thu hồi bất kỳ một sự chuyển nhượng, thanh toán bằng bất kỳ tài sản nào của con nợ trước ngày phá sản để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp và đảm bảo sự phân chia công bằng khối tài sản; các tài sản có được do Tín thác viên đã thực hiện việc xiết nợ người khác đối với tài sản của doanh nghiệp mà người tín thác này đang quản lý.
Tài sản thuộc sở hữu của bên thứ ba: Một số quốc gia cho phép tài sản mà chủ nợ vẫn giữ quyền sở hữu hợp pháp được tách khỏi tài sản phá sản trên cơ sở luật phá sản phải tôn trọng quyền sở hữu hợp pháp của chủ nợ trong tài sản. Trong khi đó, một số đạo luật của quốc gia khác thì sự tách biệt dạng tài sản này phải tuân theo các quy định của luật phá sản về việc xử lý các hợp đồng. Tài sản phá sản như đã quan niệm trước đó là bất kỳ quyền nào mà con nợ có đối với các tài sản thuộc sở hữu của bên thứ ba. Sẽ có những trường hợp tài sản của bên thứ ba rất quan trọng trong việc tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp hoặc tái cấu trúc hoặc bán tài sản. Trong những trường hợp này, sẽ có lợi thế nhất định nếu luật phá sản ghi nhận cả cơ chế cho phép tài sản sở hữu bên
thứ ba vẫn thuộc phạm vi xử lý của thủ tục phá sản, với điều kiện bảo vệ lợi ích của bên thứ và và quyền của bên thứ ba về các tranh chấp việc xử lý đó.
Tài sản được thu hồi: Tài sản phá sản sẽ bao gồm cả các tài sản bị thu hồi từ các giao dịch mang tính lẩn tránh hoặc các giao dịch sau khi bắt đầu thủ tục phá sản. Về nguyên tắc, tài sản phá sản sẽ bao gồm bất kỳ tài sản nào hoặc giá trị của nó sẽ được thu hồi. Các giao dịch như vậy có thể là các giao dịch dẫn đến việc đối xử có lợi cho một số chủ nợ, gây phương hại đến tài sản phá sản hoặc phá vỡ quyền đòi nợ tập thể của các chủ nợ.
+ Xác định các tài sản loại trừ ra khỏi khối tài sản phá sản:
Đây là điều khoản mà hầu hết luật phá sản ở các quốc gia đều đã đề cập tới. Đây là điều khoản mang tính nhân đạo nhằm cho phép con nợ được giữa lại một số tài sản, chủ yếu là các đồ dùng thiết yếu hàng ngày nếu họ không có hành vi vi phạm pháp luật hoặc không có hành vi gian lận trong quá trình quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Một số tài sản mặc dù thuộc sở hữu của con nợ nhưng sẽ không nằm trong khối tài sản phá sản. Đạo luật phá sản các nước đều ghi nhận nhóm một số tài sản sẽ không nằm trong khối tài sản phá sản. Các tài sản loại trừ khỏi khối tài sản phá sản có thể gồm các tài sản cụ thể sở hữu bởi bên thứ ba đang nằm trong quyền sở hữu của con nợ khi thủ tục phá sản bắt đầu như tài sản ủy thác hoặc tài sản trong một thỏa thuận mà không liên quan đến việc chuyển giao quyền sở hữu mà là sử dụng tài sản và sẽ quay trở lại chủ sở hữu khi nào mục đích của việc chiếm hữu của con nợ được thực hiện đầy đủ. Ví dụ như tài sản là hàng hóa cung cấp cho con nợ trước khi bắt đầu thủ tục phá sản nhưng chưa thanh toán và có thể thu hồi.
Pháp luật phá sản của Đức quy định các loại tài sản loại trừ khỏi khối tài sản phá sản gồm tài sản không thuộc phạm vi tài sản bị cưỡng bức tịch thu, các tài sản cụ thể theo quy định của luật tố tụng dân sự và luật gia đình; tài sản của chủ nợ đang cho con nợ sử dụng. Luật Mất khả năng thanh toán của
Nga quy định tài sản phá sản sẽ không bao gồm tài sản không thuộc quyền sở hữu của con nợ, gồm tài sản do con nợ thuê, tài sản mà con nợ có trách nhiệm bảo quản, tài sản riêng của công nhân viên doanh nghiệp mắc nợ (trừ các loại loại tài sản phải thu hồi để thực hiện nghĩa vụ).
+ Xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp:
Xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp là việc xác định những tài sản thuộc quyền đòi nợ của các chủ nợ trong việc phân chia khối tài sản phá sản. Xác định nghĩa vụ về tài sản đúng sẽ góp phần hỗ trợ cho việc quản lý và bảo toàn tài sản phá sản. Pháp luật về phá sản ở các nước ghi nhận rằng không phải chủ nợ nào cũng có thể đòi và được thanh toán nợ từ khối tài sản phá sản ví dụ như trường hợp chủ nợ tự nguyện từ bỏ quyền đòi nợ; chủ nợ bị loại trừ quyền đòi nợ do vi phạm những quy định về tố tụng, khoản nợ bị loại trừ khỏi diện phân chia tài sản, khoản nợ không thể thanh toán do tài sản phá sản của doanh nghiệp không đủ. Luật Phá sản Hoa Kỳ quy định các khoản nợ bị loại trừ khỏi diện thanh toán như thuế và các nghĩa vụ hải quan, trách nhiệm pháp lý đối với chiếm đoạt tiền hoặc tài sản bằng cách lừa dối, đại diện không đúng thẩm quyền, hoạt động gian lận; trách nhiệm pháp lý đối với việc gây ra thương tích hoặc làm hư hỏng tài sản….
Trong nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp mắc nợ có thể phân loại thành nghĩa vụ tài sản có bảo đảm, nghĩa vụ tài sản có bảo đảm một phần và nghĩa vụ tài sản không có bảo đảm. Việc phân loại các tài sản nợ của doanh nghiệp mắc nợ có vai trò quan trọng trong việc quản lý tài sản phá sản và phân chia thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp xử lý tài sản phá sản. Mỗi loại nợ sẽ có những yêu cầu và thứ tự ưu tiên thanh toán khác nhau vì thế quản lý tài sản phá sản đòi hỏi phải nắm rõ tính chất pháp lý của từng khoản nợ để ngăn ngừa những hành vi chuyển nợ từ không có bảo đảm sang có bảo đảm hoặc tạo nợ giả, giảm nợ giữa doanh nghiệp mắc nợ và chủ nợ. Căn cứ để tòa án xác định các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ là thông qua