Các Chi Phí Trong Chuyên Chở Hành Khách Bằng Hàng Không


Bảng 2.1. Các chi phí trong chuyên chở hành khách bằng hàng không


Nhóm chi phí

Tỉ trọng trung bình (%)

Chi phí liên quan đến hãng hàng không (FC) Chi phí liên quan đến tuyến bay (SFC)

Chi phí liên quan đến chuyến bay (SFC) Chi phí liên quan đến hành khách* (VC)

10

27

45

18

100

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 188 trang tài liệu này.

Kinh tế du lịch Phần 1 - 14


* Bao gồm 9 -11% hoa hồng bán vé


Nguồn: IATA airlines


Chi phí liên quan đến hãng hàng không là các chi phí cố định cần thiết như chi phí quản lý, đặt giữ chỗ, marketing và chi phí cho các chi nhánh. Chi phí liên quan đến tuyến (đường) bay phát sinh ngay sau khi quyết định mở một tuyến (đường) bay nhất định, bao gồm chi phí máy bay (mua và khấu hao), bảo dưỡng và chi phí ở sân bay như dịch vụ kiểm tra lên máy bay, thuê văn phòng và thuê cầu thang (hoặc đường ống dẫn) lên máy bay ở tất cả các điểm dừng trên tuyến bay. Do đó, chi phí liên quan đến tuyến (đường) bay tương đối cố định (các chi phí bán cố định - SFC). Chi phí liên quan đến chuyến bay biến đổi theo tuyến (đường) bay nhưng sẽ cố định ngay sau khi quyết định vận hành tuyến bay đó được thực thi. Các chi phí này thường bao gồm chi phí cho tổ lái và đội tiếp viên, nhiên liệu (khoản này thường chiếm lớn nhất khoảng 30% trong tổng chi phí đối với hầu hết các hãng hàng không), trả tiền kiểm soát sân bay và tín hiệu hàng không. Các chi phí biến đổi liên quan đến hành khách bao gồm suất ăn, kiểm tra hành lý và bán vé. Vì hoa hồng bán vé liên quan trực tiếp đến các mức giá vé nên sẽ hợp lý hơn khi coi doanh thu của hãng hàng không tính theo mức giá thuần, trừ đi khoản hoa hồng (khoản chi phí biến đổi liên quan đến hành khách) khoảng 7 - 9%. Trong thời kỳ ngắn hạn, các hãng hàng không thường kỳ phải cam kết hoạt


động kinh doanh các dịch vụ đã đăng ký và quảng cáo, vì vậy các chi phí liên quan đến hành khách là chi phí biến đổi.

Trong mỗi chuyến bay, khả năng cung là cố định. Do đó, để tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận từ mỗi chuyến bay, các hãng hàng không thường sử dụng một số chiến thuật sau đây:

- Thiết lập mức giá vé thị trường là mức giá bù đắp được tổng chi phí chuyến bay khi có một số lượng hành khách tương ứng nhất định (điển hình là đạt được công suất 55 - 60% số ghế có khách). Vì có sự phân đoạn thị trường nên số chỗ ngồi còn lại có thể bán ở mức giá thấp hơn ở các đại lý du lịch cho đến mức giá dự phòng ngang bằng với mức chi phí biến đổi (VC). Điều đó sẽ tạo cho hãng hàng không có khả năng lợi nhuận vì doanh thu cận biên sẽ lớn hơn chi phí cận biên (MR > MC).

- Đảm bảo cơ cấu ghế ngồi theo các hạng khách khác nhau để tạo ra lợi nhuận tối đa cho mỗi chuyến bay.

- Bán vé ở mức giá cao nhất có thể, ví dụ bán cho các tổ chức chính phủ, các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế trên cơ sở nắm vững đặc điểm của từng phân đoạn thị trường.

- Ngoài ra, các hãng hàng không quốc tế lợi dụng sự giao động của tỷ giá ngoại tệ để tập trung bán ở những quốc gia mà đồng tiền nước đó đang được giá so với đồng tiền của quốc gia có hãng hàng không (ở đó giá vé máy bay chưa kịp điều chỉnh giảm xuống). Việc sử dụng các đơn vị tiền tệ trung lập trong giá vé hàng không quốc tế có thể làm giảm sự lựa chọn này nhưng không làm mất tác dụng của nó.

Giữa chuyến bay thường kỳ và chuyến bay thuê bao có sự khác nhau cơ bản. Cung của chuyến bay thuê bao thường lấy đơn vị đầu ra là số chuyến bay mà không phải là số ghế có khách hoặc số ghế ki lô mét có khách (ps/km). Bởi vì, chuyến bay thuê bao chỉ thực hiện khi tối thiểu có 90% số vé của chuyến bay được đăng ký trước và do đó, cũng đảm bảo mức tối thiểu số hành khách như vậy sẽ quay về. Nếu không đảm bảo mức tối thiểu này, chuyến bay có thể bị hoãn hoặc hợp nhất với một


chuyến bay khác. Trong khi mức giá vé thường phải rẻ hơn để đảm bảo sức chở cao, thì chi phí liên quan đến chuyến bay về thực chất trở thành các chi phí biến đổi. Do cung theo hình thức các chuyến bay nên nó có thể được điều chỉnh dễ dàng hơn theo các nhu cầu thị trường. Các chuyến bay thuê bao có sự co giãn theo giá cả cao và phản ứng linh hoạt, kịp thời hơn so với chuyến bay thường kỳ nên nó có thể phục vụ tốt nhu cầu du lịch giải trí đại chúng.

Trong thời kỳ dài hạn, các hãng hàng không thay đổi cung thông qua thay đổi tuyến bay, số máy bay, thay đổi hệ thống tổ chức và quản lý hãng. Các chi phí trên một đơn vị đầu ra (ps/km) thay đổi do các đầu vào khác nhau (như máy bay mới tạo ra năng suất trung bình cao hơn trên một đơn vị đầu ra) hoặc do sự thay đổi hệ thống các tuyến bay để thu được hiệu quả kinh tế theo thị phần và cung ứng các sản phẩm "mới". Ngoài ra, các hãng hàng không có thể sử dụng thương quyền 6 (xem phụ lục chương 3) để tăng cung các tuyến bay.

Trong ba thập kỷ qua, sự phát triển của công nghệ và kỹ thuật hàng không gắn liền với tiết kiệm chi phí đã thúc đẩy và mở rộng cung dịch vụ chuyên chở hàng không mặc dù có những thời kỳ bùng nổ chi phí nhiên liệu và nhiều hãng hàng không bị thua lỗ do khủng hoảng kinh tế.

2.2.4.2. Cung dịch vụ lưu trú khách sạn

Một trong những đặc điểm của cung các dịch vụ lưu trú là tính đa dạng. Sự đa dạng không chỉ ở phạm vi rộng các loại hình cơ sở lưu trú từ mức thấp nhất là các bãi cắm trại đến các khách sạn năm sao cao cấp và sang trọng, mà còn đa dạng về vị trí, về hình thức sở hữu và cơ cấu chi phí khác nhau của cung nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường.

Phần lớn các cơ sở kinh doanh lưu trú khách sạn có sự cung ứng cố định về số phòng hoặc diện tích không gian sẵn sàng cho thuê. Trong kinh doanh, các cơ sở này thường mong muốn đạt được sự tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận bằng kỳ vọng (lý tưởng) bán hết tất cả khả năng cung lưu trú của mình tức là đạt được 100% công suất sử dụng phòng. Kỳ vọng này cũng tương tự như các hãng hàng không. Tuy nhiên, việc


xác định một chỉ tiêu đo lường cung hoặc đầu ra của các cơ sở kinh doanh lưu trú khách sạn thường khá phức tạp. Thứ nhất, hệ số sử dụng cơ sở kinh doanh có thể được đo lường theo 3 cách khác nhau:

- Hệ số sử dụng cơ bản được xác định bằng tỷ lệ % số phòng (ngày phòng) có khách sử dụng trên tổng số phòng (ngày phòng) có khả năng cung ứng trong một thời kỳ nhất định. Hệ số này thường được gọi là công suất sử dụng phòng (hoặc công suất phòng).

- Hệ số sử dụng giường được xác định bằng tỷ lệ % số giường (ngày giường) có khách sử dụng trên tổng số giường (ngày giường) có khả năng cung ứng trong một thời kỳ nhất định (với một phòng tiêu chuẩn tính hai giường đơn và một giường đôi bằng hai giường đơn).

- Hệ số sử dụng theo doanh thu xác định bằng tỷ lệ % so sánh giữa doanh thu thực tế nhận được với doanh thu tối đa theo mức giá niêm yết trong một thời kỳ nhất định. Trong thực tiễn kinh doanh, có thể cho thuê phòng ở mức giá giảm vì nhiều lý do khác nhau như khách quen, khách thuê dài hạn và thường xuyên, khách đi theo đoàn đông...

Ví dụ: Một khách sạn 100 phòng (mỗi phòng tính 2 giường) có mức giá bán bình quân 100.000đ/đêm. Qua thống kê một ngày đêm cho thấy: Có 30 phòng mỗi phòng có 2 người thuê ở mức giá niêm yết; có 30 phòng mỗi phòng có 2 người thuê ở mức giá 70.000đ/đêm vì họ đi theo đoàn nên được giảm giá; có 20 phòng mỗi phòng có 1 người thuê với mức giá 60.000đ/đêm. Từ đó, có thể tính được các loại hệ số khác nhau: Hệ số cơ bản 80%, hệ số sử dụng giường 70% và hệ số sử dụng theo doanh thu 63%.

Thứ hai, các phòng khách sạn có thể được bán ở mức giá thấp hơn giá thị trường một cách có chủ ý (thậm chí có thể chịu lỗ) để thúc đẩy bộ phận kinh doanh ăn uống hoặc kinh doanh các dịch vụ khác (sự đàn hồi theo giá chéo của cung) hoặc đơn giản hơn để bảo đảm dòng lưu chuyển tiền tệ trong thời kỳ trái vụ. Do đó, cung với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận luôn được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu để hỗ trợ các mục tiêu khác.


Nói chung, các nhà kinh doanh khách sạn thường mong muốn cung cấp 100% số phòng của mình với hệ số sử dụng giường và hệ số sử dụng theo doanh thu đạt mức tối đa bởi vì trong cơ cấu chi phí kinh doanh khách sạn cũng tương tự như chi phí của các hãng hàng không, các khoản chi phí cố định chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh đôi khi cũng phải lựa chọn giữa việc bán số phòng ít hơn ở mức giá đầy đủ với bán số phòng nhiều hơn ở mức giá giảm (như bán cho một đoàn khách đi theo tour ở mức giá thấp). Có thể có sự lựa chọn giữa bán 40 phòng ở mức giá 100$ hoặc 90 phòng ở mức giá 50$; phần doanh thu tăng thêm 500$ có thể phải chấp nhận các chi phí biến đổi tăng lên như chi phí dọn phòng, giặt là, điện... Những khoản chi phí này sẽ biến đổi theo công suất sử dụng phòng khách sạn.

Tại các điểm đến du lịch có tính thời vụ rõ rệt, các cơ sở lưu trú thường có sự phân biệt trong quản lý cung nói chung giữa hai thời vụ: Vào lúc trái vụ các khách sạn thường nhận đăng ký đặt phòng trước theo đoàn, nhưng trong lúc chính vụ họ lại ít khi nhận đăng ký như vậy bởi vì có nhiều cơ hội để bán phòng ở mức giá niêm yết.

Để tạo ra bức tranh chi phí "trung bình" cho toàn ngành lưu trú là một vấn đề khó khăn bởi vì các phương pháp kế toán sử dụng thường không phân bổ các chi phí quản lý cho các nghiệp vụ kinh doanh phòng, kinh doanh ăn uống và kinh doanh các dịch vụ khác. Tuy nhiên, một bức tranh khái quát hoá các chi phí của ngành lưu trú trung bình khắp thế giới được trình bày trong Bảng 2.2.

Bảng 2.2 chỉ có tính chất giới thiệu chung về các khoản chi phí chủ yếu và sự phân bổ chúng trong ngành lưu trú, trên thực tế do bản chất đa dạng của ngành làm các mức độ chi phí rất khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể thấy rõ lao động là một yếu tố đầu vào chủ yếu ở các cơ sở kinh doanh lưu trú và các chi phí cố định thường vượt quá các chi phí biến đổi về tổng số và tỷ trọng.


Bảng 2.2. Cơ cấu chi phí lưu trú trung bình thế giới (%)



Khoản chi phí

Chi phí cố định (FC)

Chi phí biến đổi (VC)


Tổng số

Lao động (trực tiếp và gián tiếp)

20

20

40

Thuê tài chính, khấu hao và chi phí đồ đạc/ tài sản cố định

30

-

30

Năng lượng và bảo dưỡng

5

10

15

Giặt là, khăn trải giường và các đồ cung cấp

-

10

10

Chi phí khác

5

-

5


60

40

100

Nguồn: Horwath International "Worldwide Lodging Industry"


Một vấn đề khó khăn đối với nhiều khách sạn là mức độ lao động được coi như một chỉ số của chất lượng dịch vụ khách sạn. Chất lượng dịch vụ lại hình thành nên đặc điểm của từng cơ sở lưu trú và tạo ra sự khác biệt về giá dịch vụ giữa các cơ sở kinh doanh. Điều này có thể không phải là một vấn đề tồn tại lớn ở nền kinh tế có tiền công thấp như các nước ở Nam và Đông Nam Á, ở đó tỷ lệ nhân viên/khách là hơn 3:1 trong các khách sạn quốc tế; nhưng nó là vấn đề nghiêm trọng ở nền kinh tế các quốc gia có tiền công cao. Các khách sạn không thể áp dụng cách thức của các tàu biển du lịch là đăng ký tàu của mình dưới cờ hiệu của một quốc gia thích hợp, thuê thuỷ thủ đoàn từ quốc gia có tiền công thấp và tuân theo các điều kiện thị trường lao động của quốc gia đó. Vì vậy, các công ty khách sạn ở quốc gia có tiền công cao lựa chọn giải pháp sử dụng các thiết bị, máy móc và các đầu vào được sản xuất công nghiệp nhằm tiết kiệm và giảm bớt số lao động "đắt tiền" của mình, dẫn đến thay thế các chi phí biến đổi bằng các chi phí cố định. Khi đó, các khách sạn này phải cố gắng cung ứng hết công suất và điều này được phản ánh thông qua chính sách giá của từng khách sạn.


Trong khi đó, một khuynh hướng khác của cung dịch vụ lưu trú trong các khách sạn là nó được vận hành trong xu hướng giảm chi phí cố định (chuyển chi phí cố định thành chi phí biến đổi). Khuynh hướng này đã tạo ra sự tách biệt giữa sở hữu và quản lý khách sạn. Trước đây, ở các nước công nghiệp phát triển, hầu hết các công ty khách sạn là chủ sở hữu các tài sản của chính mình. Nhưng hiện nay, các khách sạn lớn và trung bình thường thuộc sở hữu của các công ty bất động sản và các khách sạn này hoạt động với một hợp đồng quản lý hoặc chuyển nhượng. Các tập đoàn khách sạn nổi tiếng ở Mỹ như Hilton, Hyatt, Marriott hoặc ITT Sheraton vận hành hầu hết số khách sạn của họ theo cách thức trên. Các cơ sở kinh doanh lưu trú thuộc tập đoàn hoạt động dưới các thương hiệu này thông qua hợp đồng chuyển nhượng với tập đoàn.

Như vậy, với khuynh hướng trên đã phản ánh rằng có hai loại doanh nghiệp vận hành trong các thị trường khác nhau. Các công ty bất động sản coi khách sạn như một phương tiện đầu tư đặc biệt ở các thành phố và các điểm đến du lịch chủ yếu. Giá trị vốn đầu tư sẽ được thu hồi thông qua sự chia sẻ lợi nhuận với người kinh doanh khách sạn hoặc cho thuê tài chính. Trong khi đó, các nhà kinh doanh khách sạn lại được giảm nhẹ các khoản thanh toán chi phí cố định và chịu một mức phí hoặc tiền thuê có mối liên hệ nhất định với lợi nhuận hoặc doanh thu, điều đó làm cho khoản chi phí này mang tính chất bán cố định (nửa cố định, nửa biến đổi). Tóm lại, sự tách biệt giữa sở hữu và quản lý khách sạn sẽ làm cho các quyết định cung ứng dịch vụ lưu trú khách sạn trở nên linh hoạt hơn.

Đối với cung dịch vụ lưu trú, ngoài các nhân tố ảnh hưởng đến cung du lịch nói chung như đã đề cập, thì sự kích thích của cầu là nhân tố tác động mạnh mẽ nhất đến loại cung này. Sự tăng lên của cầu về dịch vụ lưu trú gắn liền với sự phát triển du lịch (các nhân tố ảnh hưởng đến cầu đã nêu trong mục 2.1.3). Ngoài ra, sự tiến bộ của công nghệ trong các lĩnh vực xây dựng, trang trí nội thất và công nghiệp hàng tiêu dùng làm cho các khách sạn hiện đại xuất hiện ngày một nhiều hơn, nhanh hơn hoặc các cơ sở lưu trú luôn được cải thiện, nâng cấp và làm mới.


2.2.4.3. Cung ứng chương trình du lịch trọn gói

Lịch sử phát triển chương trình (tour) du lịch trọn gói ghi nhận người khởi xướng là Thomas Cook với chương trình du lịch bằng tàu hoả ở Anh năm 1841. Nhưng kinh doanh chương trình du lịch trọn gói lại bắt đầu phát triển từ lĩnh vực hàng không ở châu Âu vào đầu những năm 50 của thế kỷ 20. Vào thời gian đó, nhiều hãng hàng không có sự dư thừa số ghế ngồi trong mỗi chuyến bay. Nguyên nhân một phần do sự bổ sung thêm các máy bay và đội bay chuyển từ dự trữ trong thời gian chiến tranh trước đây sang kinh doanh dân dụng và một phần do các hãng hàng không khi đó không có sự phân đoạn thị trường và không có hệ thống giá vé phân biệt như hiện nay. Vì thế, các chuyến bay thường kỳ hoạt động liên tục với nhiều ghế ngồi không có khách. Thực tế này đã tạo cơ hội cho các công ty lữ hành (điều hành tour) trở thành những người mua buôn - bán lẻ khi mua toàn bộ các ghế ngồi trống của mỗi chuyến bay ở một mức giá giảm, thấp hơn giá vé công bố. Mức giá này thậm chí có thể giảm đến mức các chi phí biến đổi và rất thấp so với các mức giá thực. Mức giá được xác định bởi quyền mặc cả tương đối của các công ty lữ hành với các hãng hàng không.

Để bảo vệ các thị trường với mức giá vé đầy đủ của mình, các hãng hàng không áp đặt điều kiện đối với các công ty lữ hành khi bán lại các ghế ngồi mà một số điều kiện đó vẫn còn có ảnh hưởng đến ngày nay. Điều kiện cơ bản nhất là các công ty lữ hành chỉ có thể bán lại dịch vụ vận chuyển hàng không như một yếu tố cấu thành của một chương trình trọn gói hợp nhất với dịch vụ lưu trú và các dịch vụ khác ở điểm đến du lịch. Điều đó đã tạo điều kiện cho các công ty lữ hành trở thành nhà "sản xuất" các chương trình du lịch trọn gói như một loại sản phẩm đặc trưng trong lĩnh vực kinh doanh chương trình du lịch. Các công ty lữ hành phải chấp nhận rủi ro kinh doanh trong việc bán các sản phẩm "dự trữ" của chính mình.

Khi mua dịch vụ lưu trú cho các chương trình du lịch trọn gói, các công ty lữ hành cũng dành quyền mặc cả như họ thực hiện với các hãng

Xem tất cả 188 trang.

Ngày đăng: 11/07/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí