Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Của Việc Quy Định Kháng Nghị Phúc Thẩm Hình Sự

THQCT. Bản thân chức năng của Ngành kiểm sát đã nói lên tính chính trị trong hoạt động của ngành; … Qua công tác THQCT và KSXX đã kịp thời phát hiện những bất cập của pháp luật ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng của Ngành kiểm sát, kịp thời phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm vi phạm pháp luật để KNPT, “đây là trách nhiệm của nhiều cơ quan nhưng trách nhiệm chính là của Ngành Kiểm sát, không ai thay thế được”, điều này đã “góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp” [110, tr15]. KNPT hình sự là công cụ hữu hiệu bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động giải quyết án hình sự của Tòa án. Thực hiện quyền KNPT tốt góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế, vai trò của VKS trong hoạt động tố tụng nói chung và TTHS nói riêng

Pháp chế XHCN là một nguyên tắc quan trọng trong nhà nước pháp quyền XHCN. Trong hoạt động giải quyết, đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án thì nguyên tắc pháp chế càng được đề cao, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật thì KNPT có vai trò quan trọng, đảm bảo tính pháp chế trong việc giải quyết vụ án của Tòa án. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Theo đồng chí Trường Chinh: “việc thành lập VKSND chính là để đảm bảo nhiệm vụ chuyên chính dân chủ nhân dân, thực hiện dân chủ rộng rãi và phát triển nền dân chủ ấy… trước mắt hiện nay là mở rộng dân chủ với nhân dân, tăng cường chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Muốn thế phải bảo đảm sự tôn trọng pháp chế dân chủ, thực chất là pháp chế xã hội chủ nghĩa” [99, tr113]

Ý nghĩa về mặt pháp lý

KNPT hình sự quyền năng pháp lý quan trọng, góp phần đảm bảo thực hiện tốt chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực giải quyết án hình sự của Tòa án, đảm bảo uy tín của cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng. Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì chức năng chính của TAND là xét xử và việc xét xử thường được kết thúc bằng việc Toà án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam ra bản án xác định một người có tội hay không, tội gì và phải chịu hình phạt hay không, hình phạt gì? Nếu các văn bản do cơ quan nhà nước hay người có thẩm quyền khác ban hành

mà phát hiện có vi phạm thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền đó có thể sửa chữa, khắc phục bằng cách tự ban hành quyết định hủy bỏ hoặc thay thế. Tuy nhiên, đối với bản án, quyết định của Tòa án thì dù Thẩm phán hay HĐXX đã ban hành bản án đó phát hiện có sai lầm về nội dung thì cũng không có thẩm quyền tự sửa chữa, khắc phục mà cần phải có cơ chế đặc biệt để sửa chữa, khắc phục những sai lầm đó. Thủ tục đó là thủ tục phúc thẩm, do VKS kháng nghị hoặc bị cáo, bị hại hoặc người tham gia tố tụng kháng cáo. Trong đó, KNPT của VKS là quyết định của cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước ban hành nên nó có tính pháp lý. Hơn nữa, người có thẩm quyền thực hiện quyền KNPT phải thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định và phải tuân thủ đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn … theo quy định của BLTTHS và chịu trách nhiệm về quyết định KNPT đó nên quyết định KNPT cũng mang tính pháp lý cao.

Việc quy định và thực hiện quyền KNPT hình sự còn có một ý nghĩa pháp lý quan trọng khác là cơ sở để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS, nó là cơ sở để hình thành nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử”, để vụ án hình sự có thể được xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm; nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời vụ án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.

Ý nghĩa về mặt xã hội

KNPT hình sự là biện pháp góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người. Trong hoạt động xét xử của Tòa án, KNPT không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Sự vi phạm, sai lầm của Tòa án sơ thẩm trong bản án, quyết định có thể gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố tụng mà nếu không có KNPT thì chúng sẽ được đưa ra thi hành. Do đó, sự phát hiện các vi phạm của Tòa án sơ thẩm, từ đó ban hành KNPT của VKS đã kịp thời ngăn chặn những phán quyết vi phạm của Tòa án. Thực hiện tốt trách nhiệm này, tức kịp thời phát hiện vi phạm trong bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án để kịp thời yêu cầu Tòa án cấp trên khắc phục vi phạm của Tòa án cấp dưới; đảm bảo pháp luật được thực thi, giải thích và áp dụng thống nhất là điều kiện

quan trọng để hành vi của công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật thống nhất; đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đảm bảo được các quyền cơ bản của công dân, không để xảy ra các trường hợp oan sai hay bỏ lọt tội phạm.

1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định kháng nghị phúc thẩm hình sự

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

1.2.1 Cơ sở lý luận của việc quy định kháng nghị phúc thẩm hình sự

Xuất phát từ nguyên tắc pháp chế XHCN:

Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 3

Bàn về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế Lê-Nin viết: “Ủy viên công tố có quyền và có bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi tức là: Làm thế nào cho trong toàn nước Cộng hòa có một sự nhận thức thật sự nhất trí về pháp chế” [66]. Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” [54]. Cụ thể hóa quy định này, BLTTHS quy định thành nguyên tắc pháp chế XHCN tại Điều 7 BLTTHS 2015 (Điều 3 BLTTHS 2003). Đây là một nguyên tắc quan trọng trong nhà nước pháp quyền XHCN. Việc tuân thủ nguyên tắc này phải được diễn ra trong suốt quá trình tiến hành tố tụng, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và nghiêm minh, không để lọt tội phạm nhưng cũng không được làm oan người vô tội. Do đó, việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong hoạt động giải quyết của Tòa án, đặc biệt là hoạt động xét xử luôn phải đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. “Quyền duy nhất và bổn phận của ủy viên công tố là đưa các vụ án ra trước Tòa. Nhưng đó là những Tòa án nào? Tòa án của chúng ta là Tòa án địa phương” [66]. Mà mỗi địa phương “có những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau dẫn đến việc Tòa án quyết định hình phạt khác nhau, thậm chí tha bổng, tuyên không tội, làm cho pháp luật không được thống nhất trên cả nước, mỗi nơi xử mỗi kiểu” [66]. Vì vậy, “Về phương diện nguyên tắc, người ta cũng sẽ sai lầm nếu nói rằng ủy viên công tố không được quyền kháng nghị” [66]. Do đó, VKS có chịu trách nhiệm: Bất cứ quyết định nào của Tòa án “cũng tuyệt nhiên không được đi ngược lại pháp luật, và chỉ có trên quan điểm đó, ủy viên công tố mới có trách nhiệm kháng nghị đối với mọi quyết định ngược với pháp luật; làm như thế, ủy viên công tố không có quyền

đình chỉ việc thi hành quyết định ấy, mà chỉ có trách nhiệm dùng những biện pháp cần thiết để làm cho sự nhận thức về pháp luật được hoàn toàn nhất trí trong toàn nước Cộng hòa” [66]. Như vậy, để đảm bảo pháp chế XHCN được chấp hành trên toàn đất nước, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xét xử kịp thời, đảm bảo việc xét xử của Tòa án là nhanh chóng và nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; những sự việc phạm tội, tình tiết như nhau phải đảm bảo việc xử lý như nhau thì việc ra đời chế định kháng nghị, trao quyền KNPT trong TTHS cho VKS là cần thiết.

Xuất phát từ nguyên tắc hai cấp xét xử:

Hoạt động xét xử có vai trò quan trọng trong việc tìm ra chân lý, sự thật của vụ án, vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan trong quá trình nhận định, đánh giá những chứng cứ chứng minh tội phạm, áp dụng pháp luật. Do đó, việc xét xử không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm của những người tiến hành tố tụng. Để khắc phục, loại bỏ những hạn chế, thiếu sót mà Tòa án cấp sơ thẩm đã mắc phải, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, nâng cao trách nhiệm của Tòa sơ thẩm thì cần thiết quy định cơ chế hai cấp xét xử. Nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc căn bản của tố tụng dân chủ, để đảm bảo việc xét xử, việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm được thận trọng, chính xác cũng như để hạn chế những sai lầm có thể xảy ra thì cần thiết đảm bảo quyền chống án của các bên buộc tội (VKS), bên bị buộc tội (bị cáo) và những người tham gia tố tụng. Việc chống án của VKS được thể hiện bằng KNPT, KNPT không làm triệt tiêu, hủy bỏ hoặc đình chỉ phán quyết của Tòa án, tức không can thiệp vào công việc nội bộ của ngành Tòa án. Mà việc giải quyết kháng nghị sẽ do Tòa án cấp trên của Tòa án đã sẽ xử sơ thẩm có trách nhiệm xem xét phán quyết (xét xử) lại phán quyết của Tòa án cấp dưới đã hợp pháp, đúng pháp luật chưa? Việc xem xét lại phần hoặc toàn bộ phán quyết bị kháng nghị gọi là phúc thẩm, xem xét lại theo hướng làm phúc cho các bên tham gia tố tụng.

Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, đảm bảo quyền con người

Chế định KNPT xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quyền con người là một quyền cơ bản được pháp luật của các quốc gia trên thế giới thừa nhận và bảo vệ. Đặc biệt, trong

quá trình giải quyết một vụ án hình sự thì quyền của con người, quyền công dân cần phải được đề cao hơn. Bởi lẽ, phán quyết của Tòa án trong hoạt động xét xử hình sự quyết định số phận pháp lý, sinh mệnh chính trị của bị cáo, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, những người tham gia tố tụng khác mà nếu không phát hiện những vi phạm, thiếu sót thì có thể sẽ không khắc phục được, gây nên tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải có cơ chế phát hiện những vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định sơ thẩm để kịp thời khắc phục và sửa chữa những vi phạm, yêu cầu Tòa án cấp trên giải quyết vụ án một cách toàn diện và đúng đắn, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng. Cơ chế đó là chế định KNPT, KNPT ra đời là nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân, mà cụ thể là bị cáo và những người tham gia tố tụng.

1.2.2 Cơ sở thực tiễn của việc quy định kháng nghị phúc thẩm hình sự

Như ở nhiều nước trên thế giới, KNPT hình sự ở nước ta là một quyền năng pháp lý quan trọng mà nhà nước chỉ trao cho cơ quan VKS (công tố). Trong các văn bản về tố tụng hình sự đầu tiên, Nhà nước ta đã quy định Công tố viên (Biện lý) có quyền chống án. Sau khi VKSND được thành lập, chế định KNPT liên tục được quy định trong các Luật tổ chức VKSND năm 1960, 1981, 1992, 2002 và các BLTTHS năm 1988, năm 2003, năm 2015. Cùng với quá trình hoàn thiện của luật pháp, chế định về KNPT hình sự của VKS cũng được bổ sung ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, quyền KNPT thuộc về chức năng THQCT hay chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của VKS thì có nhiều quan điểm khác nhau. Theo quan điểm của tác giả Dương Thanh Biểu: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những hoạt động của VKSND nhằm THQCT trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” [4, tr9]. Tác giả Nguyễn Huy Tiến thì cho rằng KNPT là “một bộ phận hữu cơ của quyền công tố, là sự mở rộng và tiếp tục của quyền công tố, hay nói cách khác nó là thẩm quyền phái sinh từ quyền công tố, là biểu hiện về mặt hình thức của quyền công tố, nó như một sự nối dài của quyền công tố và đó cũng là một cơ chế hỗ trợ quyền công tố” [77,42]. Những quan điểm cho rằng kháng nghị xuất phát từ quyền công tố có hạt nhân hợp lý, mục đích của việc KNPT là tiếp tục việc

buộc tội của VKS mà trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện. Tuy nhiên, nếu cho rằng KNPT xuất phát từ quyền công tố là chưa đầy đủ. Nếu hiểu theo cách này, KNPT hình sự chỉ xuất hiện khi cho rằng việc xét xử có oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Trong thực tế, KNPT hiếm khi được thực hiện tại phiên tòa sau khi Tòa tuyên án, mà thường được thực hiện thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết định Tòa án. Quan điểm khác lại cho rằng KNPT xuất phát từ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, KSXX của VKS, khi phát hiện các sai sót, vi phạm về xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên khắc phục. Tuy nhiên, quan điểm này chưa thực sự chính xác. Bởi căn cứ vào các quy định của BLTTHS, KNPT hình sự xuất hiện khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc về nội dung, còn các vi phạm không hoặc ít nghiêm trọng thì không KNPT.

Tác giả Ngô Thanh Xuyên cho rằng KNPT hình sự vừa thể hiện quyền năng thuộc chức năng THQCT, vừa thể hiện quyền năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, KSXX [113, tr12]. Quan điểm này là hợp lý, vì đã bao hàm nội dung các quan điểm khác, kháng nghị không xuất phát từ một chức năng mà xuất phát từ cả hai chức năng của Viện kiểm sát là chức năng THQCT và KSXX. Vì vậy, có thể nhận định KNPT xuất phát từ cả hai chức năng của VKS là chức năng THQCT và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (KSXX). Cả hai chức năng này có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, không thể tách rời, mà đan xen, hỗ trợ nhau, tạo nên tính thống nhất trong chức năng của VKS, đảm bảo cho VKS thực hiện quyền năng mà pháp luật quy định.

Thực tiễn đã chứng minh việc giao quyền KNPT trong việc giải quyết vụ án hình sự cho VKS trong 60 năm qua là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở. Công tác KNPT của VKS đối với bản án, quyết định sơ thẩm hình sự của TAND đã đạt được nhiều kết quả. Thông qua thực hiện quyền năng KNPT, VKS các cấp đã góp phần khắc phục những sai sót của Toà án cấp sơ thẩm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và đấu tranh kiên quyết, có hiệu quả đối với các loại tội phạm (101, tr1).

1.3. Lược sử hình thành và phát triển quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự

Việc nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của quy định về KNPT qua các giai đoạn lịch sử pháp luật TTHS là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng; là cơ sở để so sánh, đối chiếu những quy định của pháp luật về KNPT qua từng giai đoạn, từ đó chọn lọc những hạt nhân hợp lý để kế thừa, nhằm đề xuất sửa đổi pháp luật tố tụng cho phù hợp với tình hình kinh tế - chính trị, xã hội Việt Nam hiện nay.

* Giai đoạn trước khi BLTTHS năm 1988 ra đời:

Trong thời kỳ phong kiến, bộ máy nhà nước không có sự phân định rò ràng về tổ chức quyền lực giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Pháp luật còn mang nét sơ khai nên mới chỉ thừa nhận quyền kháng cáo, còn quyền KNPT chưa được quy định.

Ngay sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ngày 24/01/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành sắc lệnh số 13-SL quy định về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là văn bản pháp luật về lĩnh vực tư pháp đầu tiên của chế độ mới. Theo đó, Tòa án sơ cấp (ở cấp quận), không xử việc hình; Toà án đệ nhị cấp (cấp tỉnh) giải quyết việc tiểu hình và đại hình. Khi xét xử sơ thẩm việc đại hình “Ông biện lý ngồi ghế công tố viên”, nếu không đồng ý với phán quyết của Tòa án “Ông Biện lý… có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm” (Điều 34). Như vậy, quyền “quyền phản đối với bản án” của công tố ủy viên (tương tự như KSV hiện nay) đã được ghi nhận với thuật ngữ “chống án”. Điều này thể hiện, mặc dù chính quyền còn non trẻ nhưng “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh nền tư pháp cách mạng Việt Nam với tư tưởng pháp quyền đúng đắn” [99, tr102], đã sớm hình thành nguyên tắc “hai cấp xét xử”. Sau đó, “quyền phản đối với bản án” của công tố viên tiếp tục được ghi nhận nhưng đã thay thuật ngữ “chống án” bằng thuật ngữ “kháng cáo”: “Về việc hình, khi án đã tuyên ra rồi, ông biện lý cũng như những người đương sự có quyền kháng cáo” (Điều 28 Sắc lệnh 51-SL ngày 17/4/1946) [13].

Do Chính phủ và “nhân dân ta mới giành được chính quyền phải đối phó với tình hình gay go phức tạp hồi đó, rồi bắt tay vào cuộc kháng chiến trường kỳ và ác liệt” [10] nên đối với các loại tội phạm phản cách mạng cần phải nghiêm trị, mới có xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, không quyền chống án nên “một số nguyên tắc pháp lý dân chủ chưa được thực hiện đầy đủ” [9].

Sau khi Miền Bắc được giải phóng năm 1954, để “bảo đảm được quyền chống án của bị can và của Công tố viện” [9], Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư 1458/HCTP ngày 15/8/1955 quy định về nguyên tắc xét xử hai cấp đối với những vụ án có tính chất chính trị, Thông tư 1828/HCTP ngày 24/11/1955 quy định về quyền chống án và thời hạn chống án của bị cáo và công tố ủy viên; để đảm bảo quyền lợi của người dân, đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc pháp luật dân chủ, ngày 05/12/1957 của Bộ trưởng Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 141-HCTP quy định Ông Công tố ủy viên có nhiệm vụ: “Theo dòi việc xét xử …của Tòa án nhân dân có hợp pháp không, kháng nghị đối với các bản án hoặc nghị quyết của Tòa án xét không đúng luật pháp” [10]. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam quy định về quyền kháng nghị trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, nhưng còn sơ khai.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, “Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ chí minh đã ký lệnh công bố Luật tổ chức VKSND năm 1960, đánh dấu sự ra đời của ngành kiểm sát nhân dân, một hệ thống cơ quan mới trong bộ máy nhà nước ta” [110, tr13]. Quyền KNPT vụ án hình sự đã chính thức được ghi nhận tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960: “VKSND tối cao và các VKSND địa phương có quyền…Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới một cấp” [55]. Nhưng chưa cụ thể hóa thành quyền KNPT, chưa phân định KNPT ở lĩnh vực tố tụng nào? Do trong thời kỳ chiến tranh “vừa chiến đấu, vừa xây dựng, thông qua chiến đấu mà xây dựng”, tập trung vào phòng chống các loại tội phạm gián điệp, biệt kích, hoạt động phỉ, phản cách mạng [99, tr150] nên công tác KSXX, trong đó có chế định KNPT chưa đáp ứng được yêu cầu.

Để giải quyết KNPT các vụ án hình sự của VKS, Thông tư số 03-NCPL ngày 19/5/1967 của TAND tối cao hướng dẫn trình tự phúc thẩm về hình sự. Tuy nhiên, Thông tư này bộc lộ hạn chế là việc quy định cho Tòa án cấp phúc thẩm có nhiệm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/06/2022