động của các cơ quan tư pháp tuân thủ pháp luật một cách triệt để, bảo đảm cho mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý kịp thời. Thông qua thực hiện quyền kháng nghị của mình, VKS đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, người phạm tội, không làm oan người vô tội. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh và công bằng trong phạm vi toàn quốc, đồng thời thông qua việc thực hiện quyền kháng nghị của mình, VKS cũng bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án được công bằng, việc xử lý đối với những loại tội giống nhau, hành bi phạm tội giống nhau tại tất cả mọi vùng miền trong cả nước phải bảo đảm bị trừng trị như nhau, không có sự nhân nhượng, ưu ái hơn cho một nhóm đối tượng hoặc một bộ phận nào đó, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật trên phạm vi toàn quốc.
1.3.2. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự sẽ góp phần không nhỏ vào việc thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử
Theo qui định tại điểm k khoản 3 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì VKS có chức năng thực hành quyền công tố là “Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội” [49, tr.6], tại điểm d khoản 3 Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 ghi nhận về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND “Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp;” [49, tr.7].
Quá trình thực hiện chức năng, trong giai đoạn xét xử, giai đoạn kiểm tra bản án sơ thẩm, VKS phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật thì VKS có quyền kháng nghị phúc thẩm
VAHS để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sở thẩm xét xử lại vụ án. Thông qua quyền kháng nghị phúc thẩm VAHS của mình, VKS bảo vệ quan điểm truy tố, đồng thời bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS có vai trò rất lớn trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử.
1.3.3. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự góp phần bảo vệ quyền con người trong việc xét xử các vụ án hình sự
Nhằm tôn trọng thực hiện các điều ước Quốc tế đã ký kết, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là xây dựng các qui định bảo đảm cho quyền con người, quyền công dân.VKS thông qua hoạt động kiểm sát bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) để phát hiện những vi phạm và thực hiện quyền năng kháng nghị phúc thẩm VAHS. Khi có kháng nghị của VKS, Toà án cấp trên trực tiếp mở phiên tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án, kiểm tra tính đúng đắn về hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới, nhằm khắc phục những sai lầm nghiêm trọng của Tòa án cấp dưới trực tiếp, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, xử lý công minh, không để lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội, đảm bảo việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, việc áp dụng các chính sách hình sự đối với từng người tham gia tố tụng trong vụ án được tuân thủ đúng qui định. Trong quá trình tiến hành tố tụng, pháp luật TTHS qui định các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ các chứng cứ có tội và xác định các chứng cứ vô tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, những tài liệu giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS và trách nhiệm chứng minh tôi phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, bị can, bị cáo không có
nghĩa vụ chứng minh nhưng có quyền đưa ra chứng cứ và yêu cầu chứng minh, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để họ đưa ra yêu cầu và giải quyết yêu cầu đó. Mọi vi phạm trong quá trình giải quyết một VAHS làm ảnh hưởng đến quyền con người của những người tham gia tố tụng đều là căn cứ để kháng nghị phúc thẩm VAHS. Sau khi phát hiện bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) có vi phạm nghiêm trọng pháp luật hình sự, pháp luật TTHS, cùng với việc dựa vào thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xét xử phúc thẩm VAHS, VKS kháng nghị phúc thẩm VAHS để bảo vệ quyền con người trong VAHS
1.4. Phân biệt kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự với kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát.
Căn cứ vào các văn bản pháp luật TTHS, có thế phân biệt ba dạng kháng nghị khác nhau của VKS theo các tiêu chí như: Kháng nghị theo cấp phúc thẩm VAHS của VKSND; kháng nghị theo cấp giám đốc thẩm VAHS của VKSND; kháng nghị theo cấp tái thẩm VAHS của VKSND.Căn cứ vào bảng dưới đây, chúng ta có thể nhận thấy sự khác nhau của 3 (ba) dạng kháng nghị (phúc thẩm - giám đốc thẩm - tái thẩm) của VKSND:
Bảng 1.1. Phân biệt kháng nghị phúc thẩm - giám đốc thẩm - tái thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Cấp kháng nghị VAHS | Bản chất pháp lý của kháng nghị VAHS | Các căn cứ đưa đến việc kháng nghị VAHS | Hậu quả pháp lý của kháng nghị VAHS | |
01 | Kháng nghị VAHS theo cấp phúc | Khi có kháng nghị thì VAHS cấp sơ | Tại Điều 33 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS thì kháng nghị phúc thẩm VAHS có bốn căn cứ sau: 1) Việc điều tra, xét hỏi tại phiên | Tại khoản 2 Điều 237 BLTTHS năm 2003 thì hậu quả của việc kháng nghị là: những phần của bản án bị |
Có thể bạn quan tâm!
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 5
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 6
- Ý Nghĩa Của Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự
- Hậu Quả Của Việc Kháng Nghị Phúc Thẩm Hình Sự
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Qui Định Pháp Luật Trong Công Tác Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Giang (Những Năm 2010 - 2014)
- Một Số Tồn Tại Trong Công Tác Kháng Nghị Phúc Thẩn Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Giang Và Nguyên Nhân Của Những Tồn Tại Đó
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
thẩm của VKSND | thẩm (cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp) phải được xét xử lại từ đầu bởi Tòa án cấp trên trực tiếp | tòa phiến diện hoặc không đầy đủ: 2) Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án 3) có việc vi phạm trong việc áp dụng BLHS 4) Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng | kháng nghị chưa được đưa ra thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị (trừ trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam) thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo - qui định tại khoản 2 Điều 255 của BLTTHS này. Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành. | |
Kháng nghị VAHS | Khi có kháng nghị thì | Tại Điều 273 Bộ luật TTHS, Điều 49 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử | Khi bản án hoặc quyết định bị kháng nghị theo thủ tục GĐT thì sẽ không |
theo cấp GĐT của VKSND | Tòa án cấp giám đốc thẩm kiểm tra lại tính có căn cứ hợp pháp của bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật. | hình sự thì bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau: 1- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ; 2- Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; 3- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; 4- có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS.Tuy nhiên tại Điều 371 Dự thảo BLTTHS sửa đổi trình Quốc hội kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 thì chỉ qui định 03 căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm. | được đưa ra thi hành. Trường hợp bản án hoặc quyết định đó đang được thi hành thì những người đã kháng nghị có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành. | |
Kháng nghị VAHS theo cấp tái thẩm của VKSND | Kiểm tra lại tính có căn cứ, hợp pháp khi trong vụ án hình sự có xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung cơ bản của | Theo quy định tại Điều 291 BLTTHS, Điều 63 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự thì những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là: 1.Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời khai của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật; 2. Điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không | Những người đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị nếu việc tiếp tục thi hành bản án hoặc quyết định đó gây thiệt hại cho người bị kết án. |
vụ án hình sự | đúng làm cho vụ án bị xét xử sai; 3.Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc các tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng d sự thật; 4.Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật. Trong Dự thảo BLTTHS sửa đổi trình Quốc hội kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 qui định tại Điều 398 qui định 4 căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm |
Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC QUI ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
2.1. Thực trạng các qui định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự
2.1.1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự
Với chức năng thực hành quyền công tố, trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, kiểm sát viên có nhiệm vụ bảo vệ quan điểm truy tố của VKS, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mức hình phạt giành cho bị cáo phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, phù hợp với nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, phù hợp với tình hình chính trị tại địa phương.
Ngoài ra, VKS còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Toà án. Nếu quá trình xét xử sơ thẩm án hình sự, mà Toà án vi phạm nghiêm trọng các qui định về pháp luật hình sự và pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, hoặc sau phiên toà xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy trong suốt quá trình từ khởi tố VAHS, điều tra, truy tố, xét xử vì lý do chủ quan hay khách quan có vi phạm pháp luật về hình sự và pháp luật TTHS thì VKS cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp) sử dụng một quyền năng pháp lý đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện BLTTHS năm 2003 cho đến nay đã có các quy định cụ thể về những căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nhưng lại chưa có quy định cụ thể về những căn cứ để kháng nghị phúc thẩm VAHS. Mặc dù vậy, tại Qui chế về
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự các năm 1996, 2004, 2007 của VKSND tối cao đã chỉ ra 4 (bốn) căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự đối với bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự chưa có hiệu lực pháp luật mà cụ thể là: Tại Điều 33 Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS (ban hành kèm theo quyết định số 121/2004/QĐ-VKSTC ngày 16-9-2004 của Viện trưởng VKSND tối cao) đã nêu: “1- Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, khi có một trong những căn cứ sau đây: a. Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ; b. Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; c. Có những vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự; d. Có những vi phạm về thủ tục tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” [61, tr.34], còn trong Qui chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS (Ban hành kem theo Quyết định số 960/QĐ- VKSTC ngày 17-09-2007 của Viện trưởng VKSND tối cao lại nêu các căn cứ kháng nghị phúc thẩm và qui định thêm tại điểm d khoản 1 Điều 33 “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về tố tụng” [62, tr. 34].
Có thể thấy, các căn cứ kháng nghị bản án (quyết định) theo thủ tục phúc thẩm VAHS theo Qui chế tạm thời không có cụm từ “nghiêm trọng”, còn trong các căn cứ kháng nghị nêu trong Qui chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (Ban hành kem theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/09/2007 của Viện trưởng VKSND tối cao có nêu “có vi phạm nghiêm trọng khác về tố tụng”. Việc VKSND tối cao có quy định về các căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS là cần thiết, vấn đề này giúp VKS các cấp có nhận thức thống nhất để xem xét, quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị phúc thẩm đối với các bản án (quyết định) sơ thẩm có vi