Vai Trò Của Thẩm Phán Trong Việc Thực Hiện Các Nguyên Tắc Cơ Bản Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự

Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người được triệu tập đến phiên tòa, chủ tọa phải giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ của họ quy định tại điều luật tương ứng của Bộ luật tố tụng hình sự, ví dụ: Đối với bị cáo phải giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ của họ quy định tại Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự, đồng thời cần công bố thêm quy định tại Điều 188 Bộ luật tố tụng hình sự cho bị cáo biết; đối với người bị hại phải giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự… [35].

Tuy nhiên tại các phiên tòa, một số ít Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thường không thực hiện đúng các quy định này, việc giải thích và phổ biến quyền và nghĩa vụ của những người được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa được tiến hành rất sơ sài, qua loa và không phổ biến đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được ghi nhận trong các điều luật tương ứng. Ngay trong giáo trình về kỹ năng xét xử các vụ án hình sự để đào tạo nghiệp vụ xét xử cho Thẩm phán tại Học viện tư pháp, cũng đưa ra cách thức khác nhau.

Ví dụ: khi hướng dẫn về kỹ năng giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo, giáo trình có liệt kê bị cáo có 10 quyền trong đó có quyền "sau phiên tòa, được đề nghị xem biên bản phiên tòa" [20, tr.280-281] mà những quy định này không được ghi nhận tại điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự, hay trong giáo trình cũng không hề nhắc tới việc phổ biến Điều 188 Bộ luật tố tụng hình sự theo như hướng dẫn trong Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Về nghĩa vụ, Điều 50 (Điều 61 BLTTHS sửa đổi năm 2015) Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định "Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã" [35]. Không hề có quy định bị cáo phải chấp hành nội quy phiên tòa như trong giáo trình đào tạo Thẩm phán hướng dẫn khi phổ biến

nghĩa vụ cho bị cáo, đối với những người tham gia tố tụng khác cũng tương tự như vậy, dẫn đến việc áp dụng không đồng bộ, thống nhất giữa các Thẩm phán hiện nay trong quá trình xét xử các vụ án hình sự.

a) Việc xét xử phải đảm bảo sự có mặt của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa bao gồm: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định, trừ trường hợp pháp luật quy định được vắng mặt. Trong trường hợp những người này vắng mặt tuỳ từng trường hợp mà Tòa án phải hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử bình thường, nhưng phải đảm bảo sự thật khách quan của vụ án, tránh những sai sót, thiếu căn cứ pháp lý dẫn đến kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.

b) Việc xét hỏi tại phiên tòa (Điều 307 BLTTHS sửa đổi năm 2015): Sau khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung nếu có. Hội đồng xét xử đặc biệt là Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Căn cứ vào kế hoạch xét hỏi đã được chuẩn bị từ trước, việc xét hỏi được tiến hành theo trình tự Chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó đến các Hội thẩm nhân dân, tiếp đến là Kiểm sát viên, người làm chứng, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết để làm sáng tỏ vụ án, các câu hỏi được đạt ra phải rõ ràng, dễ hiểu, không được dùng các lời nói xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người được xét hỏi, đồng thời phải đặt ra nhiều loại câu hỏi khác nhau, hỏi thẳng vào vấn đề hướng bị cáo và những người được hỏi tập trung làm sáng tỏ vấn đề còn mâu thuẫn trong vụ án

Nhìn chung các Thẩm phán đã thực hiện tốt kỹ năng, trình tự việc xét hỏi và trình tự xét hỏi. Có trường hợp Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa hỏi bị

cáo trước rồi hỏi người bị hại hay người làm chứng sau hoặc ngược lại và đôi khi cũng có Thẩm phán khi vào phần bắt đầu thẩm vấn từ bị cáo đầu vụ với vai trò phạm tội chính, nhưng cũng có khi lại xét hỏi từ những bị cáo đồng phạm trước. Việc áp dụng phương pháp xét hỏi nào phụ thuộc vào hồ sơ vụ án cũng như kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán nhưng kết quả vẫn đảm bảo vụ án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, khách quan và có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, hiện nay một số phiên tòa vẫn còn có những hạn chế do thói quen trước đây của Thẩm phán theo kiểu tố tụng lối mòn cũ, Thẩm phán do nghiên cứu hồ sơ từ trước do vậy cách hỏi đôi khi còn nghiêng về việc buộc tội theo cáo trạng, chưa làm rõ các tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thẩm phán thường lấn sân của Kiểm sát viên, do vai trò của Kiểm sát viên tại phiên toà chưa cao, nhiều khi Thẩm phán làm thay cả công việc buộc tội của công tố viên, các câu hỏi của Thẩm phán còn dài dòng, thậm chí không đúng trọng tâm làm cho người được xét hỏi khó nắm bắt được vấn đề trọng tâm.

Khi xét hỏi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa cần hạn chế tới mức tối thiểu việc đặt ra những câu hỏi yêu cầu người bị xét hỏi trả lời có hay không có hành vi phạm tội. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa không được khẳng định công khai tại phiên tòa việc khai báo của những người được xét hỏi là đúng hay sai. Đặc biệt trong trường hợp lời khai của họ tại phiên tòa khác với lời khai tại cơ quan điều tra, việc khẳng định lời khai đúng hay sai, bị cáo có thành khẩn hay không thành khẩn khai báo hành vi phạm tội hoàn toàn phụ thuộc vào niềm tin nội tâm của Thẩm phán khi đánh giá chứng cứ trong vụ án.

Không phải trong trường hợp nào, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa hay thành viên trong Hội đồng xét xử cũng có quyền công bố lời khai tại cơ quan điều tra của họ, việc công bố lời khai tại phiên toà phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 208 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Điều 308 BLTTHS sửa

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

đổi năm 2015), vì trong thực tế khi công bố lời khai tại cơ quan điều tra, các Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thường quên không hỏi lý do tại sao lời khai tại phiên tòa lại khác với lời khai tại cơ quan điều tra.

Trong khi tiến hành việc xét hỏi tại phiên tòa, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử tránh việc đôi co với bị cáo trong trường hợp họ phản cung hoặc không nhận tội mà trong trường hợp này Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa phải hướng để cho đại diện Viện Kiểm sát thực hiện việc xét hỏi nhằm bảo vệ cáo trạng.

Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 7

Một vấn đề cấp bách hiện nay là các cơ quan Tòa án địa phương do cơ sở vật chất chưa được trang bị đầy đủ nên trong những vụ án có nhiều đồng phạm, việc cách ly các bị cáo cũng như các nhân chứng, là rất khó thực hiện, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến tính khách quan trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.

c) Việc tranh luận tại phiên tòa (Điều 322 BLTTHS sửa đổi năm 2015): Tranh luận tại phiên tòa là một trong những thủ tục quan trọng để xem xét đánh giá chứng cứ, tình tiết có liên quan đến vụ án một cách khách quan, toàn diện và tranh luận tại phiên tòa là một trong những bước tiến quan trọng để đưa tố tụng nước ta từ tố tụng xét hỏi sang tố tụng tranh tụng theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp

Trong giai đoạn tranh luận, với vai trò là người tổ chức, điều hành, là người trọng tài của cuộc tranh luận công khai thì Hội đồng xét xử nói chung, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa nói riêng phải đảm bảo cuộc tranh luận không đi chệch hướng trọng tâm cần phải giải quyết vụ án, cũng không để cuộc tranh luận diễn ra tẻ nhạt hoặc quá căng thẳng đến mức các bên xúc phạm danh dự, uy tín của nhau tại phiên tòa.

Thực tiễn trong nhiều trường hợp những người tham gia tố tụng còn

không nhận thức được tranh luận là gì và vai trò của tranh luận là như thế nào mà diễn biến phiên tòa thường tập trung vào phần xét hỏi. Việc tranh luận hiện nay vẫn diễn ra một cách hình thức để đảm bảo thủ tục tố tụng chứ chưa phải là tranh luận theo đúng nghĩa của nó, trong phần tranh luận đòi hỏi Hội đồng xét xử phải thực sự trở thành trọng tài khách quan, lắng nghe ý kiến của các bên để tìm ra sự thật của vụ án. Nhưng thực tế, do nhận thức pháp luật còn hạn chế các bên thường không tranh luận gì, do đó việc tranh luận tại các phiên tòa ở một số địa phương diễn ra rất nhanh chóng và không có gì khác so với phần xét hỏi.

d) Thủ tục nghị án và tuyên án (Điều 326, 327 BLTTHS sửa đổi năm 2015): Việc nghị án và tuyên án là thủ tục cuối cùng trong phiên tòa sơ thẩm. Việc nghị án và tuyên án được thực hiện bởi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng, người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.

Trong phòng nghị án Chủ tọa phiên tòa nêu các vấn đề cần thảo luận và những quy định của pháp luật để Hội đồng xét xử thảo luận và biểu quyết (về tội danh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, những vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, yêu cầu cơ quan tổ chức áp dụng các biện pháp phòng ngừa). Qua việc nghị án nếu có những tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại phần xét hỏi và tranh luận. Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa lập biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và Quyết định của Hội đồng xét xử, tất cả các vấn đề thảo luận và biểu quyết được coi là bí mật công tác.

Sau khi bản án được thông qua, khi tuyên án Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử nhưng thông thường

Chủ tọa phiên tòa là người đọc bản án và sau đó giải thích việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo. Khi tuyên án phải thể hiện được tính uy nghiêm, mức độ quan trọng của vụ án.

d) Một số quyết định khác của Hội đồng xét xử tại phiên toà:

Quyết định chấp nhận thay đổi hoặc không chấp nhận thay đổi những người tiến hành tố tụng: Theo quy định tại khoản 2 điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Khoản 2 Điều 299 BLTTHS sửa đổi năm 2015) thì việc thay đổi này sẽ do Hội đồng xét xử quyết định bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản, trong trường hợp quyết định chấp nhận đề nghị thay đổi mà không có thành viên khác dự khuyết tham gia phiên tòa thì Hội đồng phải ra quyết định hoãn phiên tòa về vấn đề trên.

Quyết định Hoãn phiên tòa: Hoãn phiên tòa sơ thẩm hình sự là việc chuyển thời điểm tiến hành phiên tòa sơ thẩm hình sự đã định sang thời điểm khác muộn hơn khi có căn cứ theo Điều 194 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 297 BLTTHS sửa đổi năm 2015).

Quyết định khởi tố vụ án: Khoản 1 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Khoản 4 Điều 153 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định " Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mà cần phải điều tra" [35]. Theo nguyên tắc của luật tố tụng hình sự hiện nay chúng ta chỉ có hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm không có quyền khỏi tố vụ án và trong trường hợp này nếu qua việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm thẩm mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mà cần phải điều tra thì Hội đồng xét xử có quyền tiến hành khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp khi phát hiện ra hành vi tội phạm mới tại phiên tòa, không phải trường hợp nào Hội đồng xét xử cũng ra quyết định khởi tố vụ án, đối với những trường hợp tội phạm mới đó có liên quan trực tiếp tới vụ án đang xét xử

thì thông thường Hội đồng xét xử trả hồ sơ để Viện Kiểm sát điều tra bổ sung theo điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 299 BLTTHS sửa đổi năm 2015) và chỉ khi đó là những hành vi tội phạm mới không liên quan đến vụ án đang giải quyết thì Hội đồng xét xử mới ra quyết định khởi tố vụ án “tội phạm mới tại phiên tòa được hiểu là hành vì phạm tội từ trước đến thời điểm xét xử đều chưa bị phát hiện [20, tr.581]. Hội đồng xét xử chỉ có quyền khởi tố vụ án chứ không có quyền khởi tố bị can. Đối với những hành vi của bị can mà đã được các cơ quan điều tra, truy tố, đình chỉ mà tại phiên tòa có dấu hiệu của tội phạm thì Hội đồng xét xử không được ra quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 4 điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Khoản 4 Điều 157 BLTTHS sửa đổi năm 2015) “người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật” [35] hoặc Hội đồng xét xử chỉ được khởi tố vụ án tại phiên toà là khi phát hiện người phạm tội mới tại phiên tòa. Tuy nhiên, đối với những trường hợp này Hội đồng xét xử thường ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Về việc ra bản án: Mục IV, Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn các mẫu văn bản tố tụng trong đó mẫu bản án hình sự, trong quá trình áp dụng và thực hiện, hầu hết các Thẩm phán đã tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc của nội dung này. Tuy nhiên qua nghiên cứu các bản án hình sự ở một số tòa án địa phương vẫn còn có những sai sót về hình thức, thể thức trình bày. Một số ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật có ý kiến cho rằng do công nghệ thông tin phát triển hơn nữa để tiết kiệm thời gian, nên quy định bản án chính không cần viết tay, mà các Thẩm phán có thể đánh máy vì hiện nay công nghệ thông tin đã được phổ biến, áp dụng rộng rãi trong các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương. Đối với ngành Tòa án địa phương hầu hết được nhà nước trang bị máy vi tính để làm việc, mặt khác

chúng ta đang muốn nâng cao tính dân chủ trong công tác xét xử, công khai hóa các bản án, việc Thẩm phán viết bản án thông qua máy vi tính sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian và làm tăng tính hiệu quả của công việc. Mặt khác, bản án sẽ bổ sung kịp thời được những tình tiết phát sinh tại phiên tòa từ đó bản án có tính thuyết phục cao, còn để đảm bảo tính chính xác thì khi ban hành bản án Thẩm phán phải có trách nhiệm rà soát lại bản án trước khi ký ban hành.

2.2.2. Vai trò của Thẩm phán trong việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự

1) Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Đây là nguyên tắc Hiến định được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 23 BLTTHS sửa đổi năm 2015). Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật hầu như được các quốc gia khác thực hiện và áp dụng. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì nguyên tắc trên càng đòi hỏi phải tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Tòa án độc lập như thế nào thì tại Hiến pháp năm 2013 quy định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [33, Điều 2, Khoản 3] và theo đó Tòa án phải báo cáo công tác và chịu sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân địa phương thì tính độc của Tòa án rõ ràng bị hạn chế, kèm theo đó là tính độc lập của Thẩm phán.

Bên cạnh việc phải chịu giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân địa phương thì Tòa án phải chịu sự giám sát lãnh đạo của Đảng. Đây là một yếu tố khách quan và Đảng ta là Đảng cầm quyền hoạch định cho đường lối phát

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí