Từ các khái niệm trên có thể hiểu quyền kháng nghị phúc thẩm nói chung (bao gồm: kháng nghị phúc thẩm VAHS, vụ án dân sự hoặc vụ án hành chính...) chỉ có VKS cùng cấp (hoặc VKS cấp trên trực tiếp) cùng lãnh thổ với Toà án đã ra bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm mới có quyền kháng nghị những bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, ở các giai đoạn khác nhau thì quyền kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKS cũng được quy định khác nhau.
Với việc ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1960, chức năng kháng nghị phúc thẩm VAHS đã chính thức được ghi nhận tại Điều 17 “Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân địa phương có quyền: kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân cùng cấp và dưới một cấp” [50. , tr.6].
Trong giai đoạn tiếp theo, sau khi thông qua Hiến pháp năm 1980, với việc ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1981 (với một vài sửa đổi, bổ sung), chức năng kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKS được quy định lại tại Điều 13 “Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các viện kiểm sát nhân dân có quyền: … Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật” [50. , tr.7].
Sau khi thông qua Hiến pháp 1992, trong Luật tổ chức VKSND (Điều
16) sửa một số đổi bổ sung khi viện dẫn chức năng kháng nghị của VKS sang pháp luật TTHS như sau: “Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:…3- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”[50. , tr.13]. Cụ thể hóa vấn đề này, Luật tổ chức VKSND năm 2002 (Điều 19) qui định:
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; kiến nghị với Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm trong việc xét xử; kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự [50. , tr. 14 -15].
Sau khi thông qua Hiến pháp mới năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 (một số sửa đổi, bổ sung) hoàn thiện và rõ hơn, tại Điều 5 qui định về kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND với nội dung như sau:
Trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật [45. , tr.4].
Có thể bạn quan tâm!
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 1
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 2
- Một Số Vấn Đề Lý Luận Chung Về Công Tác Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 5
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 6
- Ý Nghĩa Của Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
Từ việc nghiên cứu quyền kháng nghị phúc thẩm và bản chất của kháng nghị phúc thẩm, căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và xuất phát từ thực tiễn hai mươi năm công tác trong ngành kiểm sát, tác giả xin đưa ra định nghĩa khoa học của kháng nghị phúc thẩm VAHS như sau: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự là việc Viện kiểm sát cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp) ban hành văn bản thể hiện sự phản ứng lại đối với bản án, quyết định sơ thẩm hình sự của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự khi có các căn cứ do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 36 BLTTHS năm 2003 thì khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với VAHS, Viện trưởng VKS có những
nhiệm vụ và quyền hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Toà án [7. , tr. 31]. Như vậy, việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án (quyết định) của Toà án không chỉ là quyền mà còn là nhiệm vụ của Viện trưởng VKS trong hoạt động TTHS. Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với VAHS của VKS cho thấy, tỷ lệ án có kháng nghị còn thấp hơn tỷ lệ án có kháng cáo, một phần chủ yếu do VKS cùng cấp biết rõ vi phạm của bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự, lẽ ra Viện trưởng VKS phải ra kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm nhưng lại không kháng nghị vì cho rằng quan điểm của VKS và quan điểm của Tòa án không khác nhau, hoặc trong cái sai của Tòa án cũng có phần sai của VKS, hoặc tuy bản án, quyết định sơ thẩm hình sự có vi phạm, nhưng nếu kháng nghị thì VKS cấp trên khó bảo vệ hoặc không bảo vệ kháng nghị hay lại rút kháng nghị, thậm chí có nhiều khi còn cho rằng kháng nghị nhiều sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ phối hợp giữa VKS và Tòa án, nên đã bỏ qua nhiều bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm mà rõ ràng xác định là có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, dẫn đến một thực tế là có địa phương, nhiều năm liền không không ban hành một bản kháng nghị phúc thẩm VAHS nào trong khi số án xét xử phúc thẩm bị sửa, hủy do có kháng cáo còn chiếm tỷ lệ cao. Một thực tế nữa là, khi VKSND cấp dưới giải quyết một VAHS và khi kiểm sát bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm của Tòa án, tuy đã nhận thức rõ là có vi phạm pháp luật hình sự, TTHS và các văn bản hình sự có liên quan, nhưng vì một lý do nào đó đã không chuyển bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm đó lên VKS cấp trên theo qui định, trong thời hạn luật định để VKS cấp trên ban hành kháng nghị phúc thẩm VAHS. Một số hạn chế khác nữa là do trình độ, năng lực của một số kiểm sát viên, lãnh đạo VKS về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS còn non kém, không hiểu đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND hoặc nắm không chắc các quy định của pháp luật hình sự và TTHS, dẫn đến không thể ban hành hoặc ban hành kháng nghị không đúng quy định của pháp luật TTHS, dẫn đến VKS
cấp trên phải rút kháng nghị hoặc Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị. Ngược lại, có những trường hợp chỉ có thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu người tham gia tố tụng không có kháng cáo bản án (quyết định) của Toà án cấp sơ thẩm, thì lại kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; lại có trường hợp Viện trưởng VKS kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự các bản án (quyết định) của Toà án cấp sơ thẩm chủ yếu là để tỏ thái độ không đồng tình với bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm của Toà án, nhưng sau đó lại rút kháng nghị hoặc đề nghị Viện trưởng VKS cấp trên rút kháng nghị vv…
1.1.2. Các luận cứ về căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự trong khoa học Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Quan điểm được thừa nhận chung hiện nay là kháng nghị phúc thẩm VAHS là văn bản TTHS của VKS cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp) thể hiện quan điểm của VKS đối với bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) vì đã để xảy ra những sai sót về áp dụng pháp luật hình sự và TTHS, cũng như sự đánh giá phiến diện, không khách quan và đầy đủ của cơ quan tiến hành tố tụng đối với các trình tự cụ thể của vụ án được xét xử cũng như việc áp dụng hình phạt không phù hợp với mức độ nghiêm trọng của tội phạm cũng như của nhân thân bị cáo.
Nhằm góp phần hoàn thiện các qui định về kháng nghị phúc thẩm VAHS trong BLTTHS năm 2015. Sau hơn hai mươi năm công tác trong ngành kiểm sát, căn cứ vào thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử các VAHS, tác giả nhận thấy bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị khi có một trong 5 (năm) căn cứ sau đây thì VKS cùng cấp (hoặc cấp trên trực tiếp) có quyền kháng nghị đối với bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) mà cụ thể năm căn cứ đó là:
1) Căn cứ thứ nhất – bản án mang tính phiến diện, không phản ánh một cách khách quan, đầy đủ các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp).
Trong khoa học TTHS, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là ba giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng, bất kể một hoạt động nào trong ba giai đoạn trên đều phải tuân theo qui định của BLTTHS hiện hành, từ hoạt động khởi tố, điều tra, việc thu thập chứng cứ, việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định cho đến quá trình truy tố, xét xử sơ thẩm, tất cả đều có vị trí, vai trò quan trọng của quá trình tố tụng. Các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố được coi là giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho quá trình xét xử sơ thẩm, việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa, việc xem xét, đánh giá, chứng cứ, đánh giá tính chất mức độ hành vi của bị cáo và áp dụng pháp luật của Tòa án liên quan chặt chẽ đến giai đoạn giải quyết vụ án tiếp theo và các quyết định của Tòa án chính là đối tượng để xem xét lại ở giai đoạn phúc thẩm.
Theo tập thể tác giả đồng chủ biên TS Lê Hữu Thể - TS Đỗ Văn Đương
- Ths. Nguyễn Thị Thủy trong cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” thì: Xét xử VAHS sự là giai đoạn trung tâm của TTHS, thể hiện đầy đủ bản chất chế độ tư pháp hình sự của mỗi quốc gia, quyết định việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, Tòa án xét xử phải chính xác, công minh, vì thông qua phán quyết về những hành vi phạm tội, Tòa án duy trì công lý trong xã hội, kiểm soát xã hội trong vòng trật tự; “Tòa án phải là nơi thể hiện đầy đủ nền công lý, thể hiện chất lượng và uy tín của toàn bộ hệ thống tư pháp nước ta” [80. , tr.367].
Trong pháp luật TTHS hiện hành, giai đoạn xét xử được coi là giai đoạn trung tâm bởi chính trong giai đoạn này, Tòa án nhân danh Nhà nước
phán quyết đối với bị cáo, tại phiên tòa, với sự có mặt của các bên tham gia tố tụng, xét hỏi công khai tại phiên tòa xét xử VAHS nói chung là giai đoạn vô cùng quan trọng và đặc biệt là tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm nói riêng, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên đưa ra những câu hỏi đối với bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án, giải quyết được những mâu thuẫn trong vụ án, kiểm tra tính đúng đắn của toàn bộ tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án; kiểm tra các tài liệu, chứng cứ đó có được thu thập theo qui định của pháp luật TTHS hiện hành không, lời khai của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác có phù hợp với nhau, phù hợp với các tình tiết khác có trong hồ sơ vụ án không, để nhận thấy việc truy tố của VKS có đúng người, đúng tội, đúng qui định của pháp luật không; làm rõ các tình tiết định khung tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, các vấn đề làm căn cứ cho việc giải quyết vấn đề bồi thường dân sự trong VAHS cũng như làm rõ các căn cứ để xử lý vật chứng trong vụ án.
Việc điều tra xét hỏi công khai tại phiên toà phiến diện, được hiểu là Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, việc điều tra xét hỏi qua loa, chỉ thiên về một mặt, một khía cạnh, không điều tra xét hỏi đầy đủ các mặt các khía cạnh của vụ án, có thể do một lý do nào đó mà việc xét hỏi tại phiên tòa chỉ xét hỏi thiên về yếu tố buộc tội mà không điều tra xét hỏi các mặt, các khía cạnh gỡ tội, chỉ thiên về các tình tiết tăng nặng mà không xét hỏi về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc ngược lại, chỉ thiên về vấn đề xác định lỗi của bên bị cáo mà không xem xét đến phần lỗi của bị hại hoặc ngược lại, có thể do Hội đồng xét xử đã quá tin vào các tài liệu của cơ quan điều tra, VKS mà không điều tra, xét hỏi kỹ bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng
khác, không tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng trình bày hết các ý kiến của mình. Ví dụ: Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tiến hành xét xử khi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự… vắng mặt, mà sự vắng mặt của họ gây trở ngại đến việc xác định sự thật của vụ án; có những mâu thuẫn giữa các lời khai của người tham gia tố tụng, mâu thuẫn giữa các nguồn chứng cứ nhưng không được xét hỏi, đối chất làm rõ tại phiên tòa dẫn đến nhận định, đánh giá của Hội đồng xét xử đối với vụ án chưa đảm bảo khách quan, toàn diện.
Việc điều tra xét hỏi công khai tại phiên toà không đầy đủ có nghĩa là điều tra xét hỏi còn bỏ sót một hoặc một số tình tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án hoặc không điều tra xét hỏi đối với người tham gia tố tụng, và lời khai của người tham gia tố tụng đó rất có ý nghĩa trong việc định tội, việc quyết định hình phạt và trách nhiệm dân sự đối với bị cáo. Việc điều tra, xét hỏi công khai tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ sẽ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bản án phiến diện, oan sai, bỏ lọt tội phạm, việc quyết định hình phạt không phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, không có tính chất răn đe, phòng ngừa tội phạm, làm ảnh hưởng đến chính sách hình sự của nhà nước Việt Nam.
Chẳng hạn như, trong quá trình điều tra, truy tố một vụ án theo tội “Đánh bạc” qui định tại khoản 1 Điều 248 BLHS, cơ quan điều tra bắt quả tang 10 (mười) đối tượng đang đánh bạc trên hai chiếu bạc, tiến hành thu giữ tại chiếu bạc thứ nhất 1.050.000,VNĐ, thu tại chiếu thứ hai 3.950.000,VNĐ tổng thu giữ cả hai chiếu bạc là 5.000.000,VNĐ.Căn cứ theo qui định của BLHS và nhân thân của các đối tượng thì hành vi của các đối tượng đánh bạc tại chiếu thứ nhất không cấu thành tội phạm, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng lại căn cứ vào tổng số tiền thu của hai chiếu bạc để điều tra, truy tố, xét xử đối với cả 5 (năm) đối tượng đánh bạc tại chiếu thứ nhất. Sau khi nhận được bản án số 56/2013/HSST của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang,
VKSND tỉnh Hà Giang đã kháng nghị phúc thẩm VAHS, áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248 BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra, xét xử lại, quyết định kháng nghị đã được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận theo đề nghị của VKS.
2) Căn cứ thứ hai – các kết luận trong bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) không phù hợp với các tình tiết thực tế của vụ án
Bản án hình sự nói chung và bản án hình sự sơ thẩm nói riêng là một văn bản TTHS, nó ghi nhận các kết luận và quyết định của Hội đồng xét xử, cao hơn nữa là sự đánh giá của những người nhân danh nhà nước đối với một hành vi, một con người cụ thể khi hành vi đó, con người đó bị truy tố trước Tòa án. Bản án hình sự đánh dấu sự kết thúc của quá trình điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, với yêu cầu chính trị là bản án phải phản ánh trung thực diễn biến của vụ án và phải xác định rõ sự thật khách quan của vụ án đó là: Có sự việc phạm tội xảy ra không, ai là người đã thực hiện các hành vi đó và hành vi đó có cấu thành tội phạm không, nếu là tội phạm thì phạm tội gì, vi phạm vào điểm, khoản, điều nào của BLHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội cụ thể thế nào.
Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử thực hiện nhiệm vụ thẩm vấn công khai tại phiên tòa để kiểm tra lại tính đúng đắn của các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, tiếp thu các ý kiến tranh luận của các bên tham gia tố tụng với kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, chắt lọc thông tin, tìm ra chân lý của vụ án và đưa ra kết luận chính xác nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện. Trong phần “Xét thấy” của bản án được qui định là ghi toàn bộ sự phân tích và đánh giá của Hội đồng xét xử về vụ án bao gồm: Phân tích và đánh giá những vấn đề đã được