xét lại. Vì vậy, khi VKS đã kháng nghị mà rút toàn bộ kháng nghị thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Nếu việc rút kháng nghị trước khi mở phiên toà thì thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, tại phiên toà, kiểm sát viên rút kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tại Nghị quyết số 05/NQ-HĐTP Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã xác định bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ khi thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nhận định này là đúng nhưng chưa thật đầy đủ bởi, nó chỉ đúng khi việc ra quyết định của thẩm phán trong thời điểm mà thời hạn kháng nghị đã hết, nếu VKS đã rút một phần hay toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên toà phúc thẩm nhưng thời hạn kháng nghị vẫn còn, VKS vẫn có quyền kháng nghị lại. Trong trường hợp này, nếu thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm ngay sau khi VKS rút toàn bộ kháng nghị mà trong khi thời hạn vẫn còn, thì không thể ra quyết định đình chỉ xét xử được vì theo nguyên tắc vẫn còn thời hạn kháng nghị thì bản án chưa có hiệu lực pháp luật, vẫn còn có thể bị kháng nghị. Đối với trường hợp rút một phần kháng nghị trước khi hoặc bắt đầu phiên toà phúc thẩm, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ xem xét phần kháng nghị không được rút, trừ những trường hợp cần thiết có thể xem xét những phần khác của bản án không bị kháng nghị (kể cả những phần VKS đã rút).
2.2. Thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật trong công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang (những năm 2010 - 2014)
2.2.1. Thực trạng kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Gắn liền với yêu cầu thực hành quyền công tố chống làm oan người vô tội, chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, cùng với việc quán triệt, thực hiện Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19/6/2008 về “Tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự” của Viện trưởng VKSND tối cao.
66
Trong thời gian qua, VKSND hai cấp của tỉnh Hà Giang đã thực hiện tốt công tác kiểm sát xét xử hình sự sơ thẩm, nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong việc xét xử của Tòa án, thông qua công tác kiểm sát xét xử, hàng năm, VKSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã phát hiện vi phạm nghiêm trọng pháp luật hình sự, pháp luật TTHS đã thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm VAHS. Căn cứ vào số liệu thống kê của VKSND tỉnh Hà Giang những năm 2010 - 2014, cho thấy, số lượng kháng nghị phúc thẩm VAHS ngày càng có sự chuyển biến tích cực. Các kháng nghị phúc thẩm VAHS đã thể hiện được tinh thần kiên quyết xử lý nghiêm minh đối với các loại tội phạm, như các tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, nhiều bản án (quyết định) sơ thẩm định tội danh, quyết định mức hình phạt và trách nhiệm dân sự chưa chính xác, do Tòa án cấp sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, giai đoạn phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên đã xử quá nhẹ hoặc quá nặng. VKSND hai cấp của tỉnh Hà Giang đã kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xử đúng pháp luật, trong đó có trường hợp yêu cầu tăng mức hình phạt, có trường hợp đề nghị giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng không cho bị cáo hưởng án treo, có trường hợp tăng mức bồi thường dân sự.
Trong 05 năm, từ năm 2010 - 2014, TAND và VKSND tỉnh Hà Giang đã giải quyết theo thủ tục phúc thẩm VAHS đối với 186 bị cáo, trong đó có 17 bị cáo bị kháng nghị. Thực tiễn cho thấy 100% quyết định kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKS đạt chất lượng tốt, không có kháng nghị nào bị VKS cấp phúc thẩm rút kháng nghị, mà bảo vệ kháng nghị đạt tỷ lệ 100%, được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị 100%. Số kháng nghị phúc thẩm trên một cấp cũng tăng nhiều so với trước khi thực hiện Chỉ thị 03. Các số liệu thống kê 05 năm về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS cho thấy số kháng nghị phúc thẩm của 2 cấp kiểm sát đã tăng đáng kể, đặc biệt là kháng nghị phúc thẩm trên một cấp.Bên cạnh đó, chất lượng kháng nghị đã có chuyển biến rõ rệt, hình thức, bố cục các bản kháng nghị cơ bản tuân thủ theo
quy định tại mẫu 138 ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ- VKSTC ngày 17/9/2007 của VKSND tối cao, về cơ bản, các bản kháng nghị đã phát hiện đúng, viện dẫn chính xác căn cứ pháp luật, cách viết kháng nghị đã tốt hơn, lập luận rõ ràng, chặt chẽ hơn, không có thiếu sót, hạn chế về mặt hình thức hoặc viện dẫn thiếu căn cứ trong các bản kháng nghị.
Thống kê số lượng VAHS bị kháng nghị phúc thẩm/ số lượng VAHS được thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm (giai đoạn 2010 – 2014).
Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng án kháng nghị phúc thẩm/ số lượng vụ án được thụ lý xét xử phúc thẩm
Số lượng án kháng nghị phúc thẩm/ số án thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm | Tỷ lệ vụ án bị kháng nghị (%) | Tỷ lệ bị cáo bị kháng nghị (%) | ||
Vụ án | Bị cáo | |||
2010 | 1/22 | 1/28 | 4,5 | 3,5 |
2011 | 1/12 | 1/18 | 8,3 | 5,5 |
2012 | 1/16 | 1/31 | 6,25 | 12,90 |
2013 | 3/28 | 4/48 | 10,7 | 8,33 |
2014 | 4/39 | 7/61 | 10,25 | 11,47 |
Tổng | 10/117 | 17/186 | 8,54 | 9,13 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ý Nghĩa Của Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự
- Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Sẽ Góp Phần Không Nhỏ Vào Việc Thực Hiện Tốt Chức Năng Thực Hành Quyền Công Tố Và Kiểm Sát Các Hoạt Động
- Hậu Quả Của Việc Kháng Nghị Phúc Thẩm Hình Sự
- Một Số Tồn Tại Trong Công Tác Kháng Nghị Phúc Thẩn Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Giang Và Nguyên Nhân Của Những Tồn Tại Đó
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 12
- Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 13
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
(Nguồn: VKSND tỉnh Hà Giang)
Từ bảng số liệu trên cho thấy, công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND tỉnh Hà Giang năm 2010 cho thấy, tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKS so với tổng án xét xử phúc thẩm trong năm là 4,5%, đến năm 2014 đã tăng lên 10,25%. So sánh với thời điểm trước khi có Chỉ thị 03 thì số kháng nghị phúc thẩm mỗi năm đã tăng đáng kể. Số bị cáo bị kháng nghị so với số bị cáo bị đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm năm 2010 là 3,5% , năm 2011 là 5,5%, năm 2012 là 12,90%, năm 2013 là 8.33%, năm 2014 là 11,47%; trong khi tỉ lệ phần trăm trung bình trong các năm trước khi có Chỉ thị 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 giữa số bị cáo bị kháng nghị đưa ra xét xử so với tổng số bị cáo đã xét xử phúc thẩm là xấp xỉ gần 7,2%.
Thống kê số lượng bị cáo đã giải quyết theo thủ tục phúc thấm (giai đoạn 2010 – 2014)
Bảng 2.2. Thống kê số bị cáo đã giải quyết theo thủ tục phúc thấm
Số bị cáo thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc thẩm | Đã giải quyết | Trong đó | ||||
Đình chỉ xét xử | Số bị cáo đưa ra xét xử | Y án | Sửa án | Hủy án để điều tra, xét xử lại | ||
2010 | 28 | 5 | 22 | 11 | 7 | 4 |
2011 | 18 | 2 | 16 | 12 | 3 | 1 |
2012 | 31 | 9 | 24 | 9 | 14 | 1 |
2013 | 48 | 12 | 36 | 12 | 23 | 1 |
2014 | 61 | 8 | 51 | 7 | 40 | 4 |
Tổng | 186 | 36 | 149 | 51 | 87 | 11 |
Nguồn: VKSND tỉnh Hà Giang
Thống kê quyết định kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự 2 cấp và việc giải quyết của Tòa án (giai đoạn 2010 – 2014).
Bảng 2.3. Thống kê quyết định kháng nghị phúc thẩm 2 cấp và việc giải quyết của tòa án
Quyết định Kháng nghị phúc thẩm | Trong đó (số vụ/ bị cáo) | |||||||
Vụ án | Bị cáo | KN trên cấp của cấp tỉnh | KN cùng cấp của cấp tỉnh | KN bản án của Tòa án cấp dưới trực tiếp | VKS rút kháng nghị | Tòa án chấp nhận KN | Tòa cấp phúc thẩm bác KN | |
2010 | 1 | 1 | 0 | 0 | 1/1 | 1/1 | 0 | |
2011 | 1 | 1 | 0 | 0 | 1/1 | 1/1 | 0 | |
2012 | 1 | 4 | 0 | 0 | 1/4 | 1/4 | 0 | |
2013 | 3 | 4 | 0 | 0 | 3/4 | 3/4 | 0 | |
2014 | 4 | 7 | 0 | 0 | 4/7 | 4/7 | 0 | |
Tổng | 10 | 17 | 0 | 0 | 10/17 | 10/17 | 0 |
(Nguồn: VKSND tỉnh Hà Giang)
Căn cứ vào số liệu thống kê, tổng hợp cho thấy từ năm 2010 đến năm 2014 toàn ngành kiểm sát Hà Giang không có kháng nghị ngang cấp, 11 (mười một) huyện, thành phố (gọi chung là cấp huyện) không kháng nghị đối với bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp, trong khi số bị cáo đưa ra xét xử phúc thẩm bị cải, sửa án chiếm tỷ lệ 47,8%, số bị cáo phải hủy án để điều tra hoặc xét xử lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS và BLHS thông qua kháng nghị còn chiếm tỷ lệ thấp. Từ các bảng thống kê trên đây, căn cứ vào thực tiễn kháng nghị phúc thẩm VAHS ta thấy kháng nghị phúc thẩm VAHS trên địa bàn tỉnh Hà Giang đạt được những kết quả và tồn tại sau:
2.2.2. Kết quả đạt được
Những kết quả đạt được của kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND tỉnh Hà Giang đã thể hiện trên các vấn đề sau:
Thứ nhất, Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử hình sự đã kiểm sát chặt chẽ thủ tục tố tụng tại phiên tòa,VKSND hai cấp đã tăng cường công tác kiểm sát, phát hiện các bản án (quyết định) của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) có vi phạm và cơ bản đã làm tốt công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS để khắc phục những vi phạm nghiêm trọng của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) khi ra bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm trong quá trình áp dụng các điều, khoản của BLHS, áp dụng hình phạt và phần bồi thường thiệt hại dân sự trong hình sự, phần lớn các kháng nghị dạng này đều được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử chấp nhận quan điểm của VKS. Chỉ tính riêng trong 5 năm từ 2010 đến 2014 ở Hà Giang, thông qua kháng nghị phúc thẩm VAHS, VKS đã kháng nghị 10 vụ/17 bị cáo, được Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị 100%, trong đó, tăng hình phạt 03 vụ/08 bị cáo, chiếm 30% số vụ; giảm hình phạt 01 vụ /01 bị cáo chiếm 10% số vụ; Sửa tội danh 01 vụ/02 bị cáo, chiếm 10% số vụ, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng không cho hưởng án treo 01 vụ/ 02 bị cáo, chiếm 10% số vụ; huỷ án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại 02 vụ/02 bị cáo, chiếm 12% số vụ.
Thứ hai, Theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị, trong thời gian qua, công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS sự thật sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng kháng nghị đã được nâng cao hơn. Khi kháng nghị phúc thẩm VAHS, VKS đã chú trọng từ hình thức đến nội dung của kháng nghị, bảo đảm bản kháng nghị có căn cứ và chặt chẽ khi áp dụng pháp luật, mặt khác, VKSND cấp trên cũng tăng cường thông báo rút kinh nghiệm về những sai phạm trong khi thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm đối với các VKS cấp sơ thẩm, nhằm bảo đảm chất lượng kháng nghị đạt chất lượng theo yêu cầu của cải cách tư pháp. VKS hai cấp đã chú trọng tới những vụ án được dư luận quan tâm, nhất là các vụ án về tham nhũng, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng qui định của pháp luật, rất nhiều bản kháng nghị của VKS đã giải quyết được những bức xúc trong dư luận báo chí và được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Thứ ba, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm VAHS góp phần tích cực trong công tác đấu tranh chống và phòng chống tội phạm đang ngày một gia tăng trong tình hình mới.VKS thông qua công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS đã góp phần trong việc thực hiện đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm nhất là đối với các loại như mua bán trái phép các chất ma túy, các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tội phạm mua bán người, mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, các tội phạm tham những, các loại tội phạm về kinh tế. Bắt nhịp với xu thế hội nhập mở cửa toàn cầu hoá trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền như hiện nay, xã hội ta phải đối mặt với không ít mặt trái xâm nhập từ nước ngoài vào, đó là những loại tội phạm mang tính quốc tế như lừa đảo, tội phạm mua bán người, mua bán, chiếm đoạt trẻ em, truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ, hậu quả của hành vi đánh bạc từ các nước như Trung Quốc, Campuchia dẫn đến tội phạm cho vay nặng lãi, thanh trừng lẫn nhau giữa các băng nhóm tội phạm đã có chiều hướng gia tăng. Việc trừng trị nghiêm khắc những loại tội phạm này là sự răn đe cần thiết đối với những kẻ tội phạm định coi Việt Nam là “vùng đất phạm tội mới”. Thông qua
việc kháng nghị phúc thẩm VAHS, VKS đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong đấu tranh phòng chống những loại tội phạm này.
2)Nguyên nhân: Cùng với yêu cầu công tác chung của toàn ngành, việc thực hiện Chỉ thị 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19/06/2008 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS đã đạt được những bước tiến đáng khích lệ trong công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS, VKSND tỉnh Hà Giang đã quan tâm công tác này và coi đây là một trong những công việc trọng tâm của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thể hiện trong kế hoạch, chương trình công tác hàng năm luôn đề ra những chỉ tiêu là tăng cường việc phát hiện những bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự có vi phạm nghiêm trọng về áp dụng pháp luật hình sự và TTHS, phát hiện những bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm quyết định không đúng đường lối xét xử của Đảng và Nhà nước đã giao.Cùng với sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo VKSND tỉnh Hà Giang là trình độ của kiểm sát viên làm công tác hình sự đã từng bước được nâng lên rõ rệt, những bản kháng nghị có chất lượng cao thường là do trong quá trình kiểm sát, kiểm tra bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự đã phát hiện những vi phạm nghiêm trọng của Toà án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) trong việc áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật TTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành, việc nắm vững căn cứ pháp luật của Kiểm sát viên thể hiện ở những bản kháng nghị phúc thẩm có chất lượng cao, thường là những kháng nghị đã được phát hiện đúng những vi phạm của toà án cấp sơ thẩm trong việc áp dụng pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS. Sự sắc bén về nghiệp vụ để nắm vững căn cứ pháp luật của Kiểm sát viên là yếu tố hết sức cần thiết góp phần quan trọng cho bản kháng nghị có chất lượng cao. VKS cấp phúc thẩm đã chú trọng hơn trong công tác rút kinh nghiệm đối với VKS cấp sơ thẩm trong công tác