xuất việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm HTND, mà còn phân công HTND tham gia xét xử vụ án hình sự, giải quyết các đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền lợi của HTND nên có quan hệ khá thường xuyên. Trong khi đó, Đoàn hội thẩm là tổ chức xã hội nghề nghiệp, nơi để các hội thẩm trao đổi kinh nghiệm xét xử, góp phần nâng cao trình độ nghiệp vụ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người HTND.
Quan hệ với đơn vị, người dân nơi làm việc, sinh sống
Do hội thẩm chủ yếu kiêm nhiệm, họ có quan hệ thường xuyên với nơi công tác, sinh sống. Các mối quan hệ này diễn ra tốt đẹp không những sẽ nhận được sự ủng hộ, tạo điều kiện để hội thẩm thực hiện hiệu quả nhiệm vụ khi được phân công tham gia xét xử, tham dự bồi dưỡng nghiệp vụ,… Bên cạnh đó, HTND còn giúp cho công tác tuyên truyền, giải thích về vụ án, đường lối xét xử của tòa án với cộng đồng dân cư được dễ dàng, hiệu quả. Những người dân ở nơi sinh sống, làm việc còn là người kiểm tra, giám sát hoạt động của HTND; thông qua HTND để phản ánh với các cơ quan có thẩm quyền về tâm tư, nguyện vọng, ý chí của mình.
Ngoài ra, trong khi làm nhiệm vụ, hội thẩm còn có quan hệ với các cơ quan truyền thông, các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Là người trực tiếp tham gia tố tụng nên HTND sẽ có nhiều thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án, các đương sự, do đó khi quan hệ với bên ngoài, cần biết những gì không được tiết lộ theo quy định của pháp luật; điều gì nên hoặc không nên cung cấp bởi có thể gây tổn hại, bất lợi cho các cơ quan, cá nhân liên quan trong vụ án và những tác động, ảnh hưởng không tốt cho cộng đồng. HTND tham gia TTHS luôn chịu sức ép từ nhiều phía, do đó nếu HTND có bản lĩnh, ứng xử phù hợp sẽ có tác dụng tốt, ngược lại dễ gây nên những phản ứng trái chiều, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh, hoạt động, thậm chí vi phạm pháp luật.
2.3. Thể chế hóa bằng pháp luật các vấn đề về hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
2.3.1. Nhu cầu của việc thể chế hóa bằng pháp luật các vấn đề về hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
HTND cùng với thẩm phán là chủ thể tiến hành xét xử vụ án hình sự tại phiên tòa. Bởi vậy, kết quả xét xử của HĐXX nói chung và của HTND nói riêng có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện thẩm quyền xét xử và phán quyết của tòa án. Mặt
khác, hoạt động xét xử của HTND thể hiện tiếng nói của nhân dân trong tư pháp hình sự cũng như hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và thi hành pháp luật tố tụng hình sự, do vậy, hoạt động xét xử của HTND cần phải được giám sát pháp lý – xã hội. Việc giám sát này được tiến hành bởi các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền cũng như toàn thể xã hội.
Để có thể tạo cơ sở pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp luật cho hoạt động xét xử của HTND, bảo đảm tính công khai, tính hợp pháp, tính khoa học,… cũng như để phục vụ cho việc giám sát pháp lý – xã hội đối với hoạt động của HTND trong xét xử hình sự, cần phải thể chế hóa bằng pháp luật các vấn đề về HTND trong TTHS. Cụ thể, cần thể chế hóa các vấn đề về vị trí, vai trò của HTND trong TTHS; điều kiện trở thành HTND; thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm HTND; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của HTND; quản lý, giám sát hoạt động của HTND; chính sách, chế độ bảo đảm hoạt động của HTND, nhất là HTND trong TTHS,… Việc thể chế hóa bằng pháp luật làm cho hành vi của HTND trong TTHS trở thành những nguyên tắc, việc làm có tính bắt buộc, tính chính thức, tính hợp pháp. Đồng thời, còn làm cho thẩm quyền xét xử và phán quyết của tòa án, trong đó có sự tham gia của HTND được thực hiện một cách minh bạch, rò ràng, bảo đảm.
Pháp luật được coi là phương tiện thể chế hóa chủ trương đường lối của Đảng. Thể chế hóa bằng pháp luật về vấn đề tư pháp nói chung và về HTND trong TTHS nói riêng không chỉ là mục đích, nhiệm vụ mà còn là yêu cầu nhằm thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Công việc này diễn ra thường xuyên, bao trùm và nhất quán ở nước ta hơn 70 năm qua. Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và trước những vấn đề đặt ra hiện nay của công tác xét xử, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đặt ra yêu cầu “Tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện những chủ trương về cải cách, về tổ chức các cơ quan tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX”, đồng thời “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh. Riêng đối với đội
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Công Trình Nghiên Cứu Về Lý Luận, Lịch Sử Hình Thành, Phát Triển Của Cơ Chế Đại Diện Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Khái Niệm, Đặc Điểm, Địa Vị Pháp Lý Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Vai Trò Và Các Mối Quan Hệ Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Các Yếu Tố Tác Động Đến Việc Thực Hiện Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
- Quá Trình Phát Triển Của Chế Định Bồi Thẩm Đoàn
- Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Hội Thẩm Nhân Dân Trong Tố Tụng Hình Sự
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
ngũ HTND, cần “nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lựa chọn, bầu cử, bồi dưỡng, quản lý HTND nhằm đề cao trách nhiệm và vai trò của HTND trong xét xử” [6].
Pháp luật còn là phương tiện thể chế hóa chính sách pháp luật của Nhà nước về HTND trong TTHS. Pháp luật, với đặc điểm và bản chất của nó, luôn là một hệ thống thống nhất về cả khía cạnh nội dung và khía cạnh hình thức (các văn bản quy phạm pháp luật). Vậy các vấn đề về HTND trong TTHS cần phải được quy định ở những cấp độ nào đó của hệ thống pháp luật. Trước hết, vấn đề HTND trong TTHS phải được thể chế hóa trong Hiến pháp – đạo luật có giá trị cao nhất bằng những nguyên tắc, quy định cơ bản, có giá trị chung nhất, để từ đó được cụ thể hóa trong pháp luật TTHS và các pháp luật khác. Để có các quy định một cách đầy đủ, chi tiết và cụ thể, vấn đề về HTND trong TTHS đã được thể chế trong Hiến pháp cần phải được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp, nhất là trong BLTTHS.
Thể chế hóa bằng pháp luật các nội dung về hội thẩm còn đảm bảo sự nhất quán, xác lập vai trò, địa vị pháp lý của HTND trong hoạt động tố tụng nói chung, đồng thời là cơ sở để các tổ chức, cá nhân xác định quan hệ với hội thẩm, tiến hành giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động, quyền lợi cho hội thẩm khi làm nhiệm vụ. Bên cạnh đó, thể chế hóa bằng pháp luật các vấn đề về HTND còn cho thấy rò bản chất, nét đặc trưng, sự khác nhau về vai trò đại diện của nhân dân tham gia xét xử giữa các mô hình tố tụng khác nhau, nhất là trong TTHS. Chưa kể, đây còn là yếu tố quan trọng để xây dựng và triển khai các hoạt động liên quan một cách thống nhất, phù hợp với quy định chung (ví dụ: tổ chức, quy chế hoạt động của Đoàn hội thẩm).
Đối với HTND, việc thể chế hóa bằng pháp luật chính là những quy định để từ đó có sự định hướng, xác định đầy đủ vai trò, trách nhiệm và hoạt động của mình. Điều này còn giúp cho HTND tự tin, chủ động khi quan hệ với các cơ quan, đơn vị và thực hiện phù hợp, hiệu quả nhiệm vụ hội thẩm.
Cuộc sống luôn vận động và phát triển, đời sống tư pháp hình sự cũng luôn vận động và phát triển, vấn đề HTND cũng vì vậy không thể không có những thay đổi. Bởi vậy, việc hoàn thiện các quy định về HTND cũng cần được nghiên cứu, bổ
sung, sửa đổi nhằm phù hợp và đáp ứng các yêu cầu thực tiễn cũng như những quan điểm, mục đích, chính sách pháp luật hình sự của nhà nước.
2.3.2. Các cơ sở của việc thể chế hóa bằng pháp luật về hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự
Cơ sở lý luận
Chế định hội thẩm và HTND trong TTHS hình thành từ quan điểm về chủ quyền nhân dân, theo đó nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực trong xã hội có giai cấp. Các quyền lực trong xã hội có giai cấp như quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, trong đó có quyền lực tư pháp đều là bộ phận của quyền lực nhân dân. Đại diện nhân dân tham gia xét xử vì vậy đã hình thành và phát triển từ lâu trên thế giới, tuy nhiên, tùy theo quan điểm, điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia, hoàn cảnh lịch sử và mô hình tổ chức tư pháp khác nhau mà vấn đề này được quy định và thực hiện khác nhau. Nhưng tựu chung, đại diện nhân dân tham gia xét xử là thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của tòa án. Người dân tham gia vào hoạt động xét xử góp phần đưa tiếng nói từ phía người dân, từ phía xã hội giúp cho các phán xét “thấu tình, đạt lý”, đồng thời thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia vào công tác quản lý nhà nước nói chung, hoạt động của tòa án nói riêng.
Chế định HTND ở Việt Nam ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay xuất phát từ các quan niệm quyền lực nhà nước, trong đó có quyền tư pháp thuộc về nhân dân. “Quyền tư pháp nên do toàn thể dân chúng cử ra, làm việc theo luật. Đây là một quan điểm tiến bộ về tư pháp. Đại diện nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử là một đặc điểm của nền tư pháp dân chủ” [79, tr.5]. Sự hình thành và phát triển của chế định HTND nói chung và HTND trong TTHS ở Việt Nam do vậy đã thể hiện sự nhất quán về tính nhân dân rất rò nét. Đó là quan điểm lấy dân làm gốc, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân và không ngừng phát huy quyền dân chủ để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cơ sở chính trị, tư tưởng
Trong suốt tiến trình đấu tranh cách mạng giải phóng và xây dựng, bảo vệ đất nước gần một thế kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là “Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4 Hiến pháp năm 2013). Ở đó, Chủ nghĩa Mác-Lênin được kế thừa và phát triển từ những quan điểm, tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa duy vật biện chứng cùng với thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác–Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của truyền thống văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh thần yêu nước chân chính và kế thừa từ những tinh hoa của tư tưởng nhân nghĩa phương Đông. Những quan điểm, tư tưởng này được Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam để thiết lập nên chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “… làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Trong hoạt động tư pháp, Người lên án tòa án thực dân phong kiến xét xử người Việt Nam mà không có hội đồng bồi thẩm [79, tr.5]. Tại hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Người phát biểu: “Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung tòa án. Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân…” [16, tr.70]. Thậm chí, Người cho rằng: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra…” [79, tr.99]. Quan điểm đó cho thấy, việc quy định và áp dụng xét xử có hội thẩm cùng với ý nghĩa nhân đạo, góp phần giải quyết vụ án được khách quan còn giúp tăng cường nhận thức và hiểu biết pháp luật của người dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; và để người dân tham gia giám sát hoạt động của tòa án.
Tư tưởng đó được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và gần đây là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp
đến năm 2020 [6], [8]. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2005, về cải cách tư pháp trong thời gian tới nêu rò “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan sai”. Để thực hiện các yêu cầu đặt ra, Nghị quyết của Đảng xác định, cần “phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào dân để hoạt động, đồng thời phải là nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống vi phạm, tội phạm và giải quyết tranh chấp”. Trong đó phải tiến hành “Sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của tòa án các cấp. Tăng cường đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng” [2, tr.19-20].
Cơ sở kinh tế - xã hội
Truyền thống lịch sử văn hóa và điều kiện kinh tế xã hội là những yếu tố hết sức quan trọng đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Bởi, ở đó cùng với các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật còn là thói quen, sự nhận thức, quan niệm và khả năng bảo đảm cho việc xây dựng, thực thi pháp luật. Đối với một quốc gia mà nền kinh tế lạc hậu, dân trí chưa cao, tình hình xã hội phức tạp hẳn việc phát huy quyền dân chủ sẽ rất khó khăn, ngược lại, trong bối cảnh một đất nước có nền kinh tế - xã hội phát triển thì việc xây dựng và thực hiện luật pháp sẽ ổn định, hiệu quả và quyền con người sẽ được đảm bảo hơn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, sự đô hộ của các thế lực ngoại bang và những cuộc chiến tranh liên miên đã để lại những tàn dư hết sức nặng nề. Cùng với nền kinh tế kém phát triển, đời sống xã hội khó khăn thì tổ chức của bộ máy nhà nước, hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật cũng trải qua một quá trình lựa chọn, thay đổi phức tạp. Mục đích sử dụng pháp luật phục vụ cho lợi ích của vua chúa phong kiến, lực lượng thống trị xã hội cùng với các điều kiện kinh tế - xã hội lạc hậu đã làm cho suốt một thời gian dài ở Việt Nam chỉ tồn tại một số đạo luật cơ bản liên quan đến hình sự, mô hình tố tụng chắp vá, vai trò đại diện nhân dân tham gia xét xử trước đây hầu như bị triệt tiêu.
Trong chính quyền cách mạng, cùng với việc xây dựng một nhà nước kiểu mới, nền kinh tế - xã hội được coi trọng, phát triển. Hiện nay, bên cạnh những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực, hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật đã có những bước tiến đáng kể, vấn đề phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người ngày càng được chú trọng. Kinh tế - xã hội phát triển giúp cho quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp diễn ra mạnh mẽ, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiều bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp, xét xử đã và đang đi vào cuộc sống, ngày càng đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Điều đó khẳng định một thực tế, nếu như kinh tế - xã hội ổn định, pháp luật sẽ sớm được hoàn thiện, ý thức pháp luật cũng sẽ được nâng cao và sự định hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn.
Chính sách pháp luật tố tụng hình sự
Vai trò của tòa án và hoạt động xét xử mang bản chất dân chủ ở Việt Nam đã được quan tâm ngay từ giai đoạn cách mạng còn trứng nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ trước tháng Tám năm 1945, trong phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự manh nha về việc đại diện của nhân dân tham gia xét xử. Trong một số tòa án cách mạng được hình thành để xét xử những kẻ phản động đã có đại diện quần chúng nhân dân tham gia phát biểu và các ý kiến của người dân được tôn trọng [79, tr.5]. “Trong khoảng năm 1948 – 1949, đã nổ ra một cuộc tranh luận khá ồn ào trên báo chí về vấn đề “quyền độc lập của tòa án đối với hành chính”, giữa một số cán bộ pháp lý và cán bộ chính trị” [79, tr.31]. Thậm chí, để ngành tư pháp vươn lên làm tròn nhiệm vụ mới, năm 1950, Chính phủ còn mở riêng lớp học chính trị cho cán bộ tư pháp nhằm giúp cán bộ trong ngành hiểu thêm lập trường về nhân dân, “nghĩa là trong khi xét xử phải chú trọng trước hết đến quyền lợi của đa số thuộc các tầng lớp nghèo trong nhân dân”. “Danh từ “Tư pháp nhân dân, Pháp lý nhân dân” xuất hiện lần đầu tiên cùng với việc thành lập TAND. Tư tưởng được chuyển biến tốt, anh em ngoài việc xử án có góp phần tích cực vào việc soạn thảo một số văn bản theo quan điểm pháp lý nhân dân. Điển hình là Sắc lệnh số 97 về một số nguyên tắc dân luật và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ngày 22/5/1950, với Điều 1 quy định như sau: “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân” [79, tr.32].
Qua đó có thể thấy, quan điểm, chính sách pháp luật về TTHS ở nước ta về cơ bản đã sớm được chú trọng. Điều này không những thể hiện ở chủ trương, đường lối của Đảng, mà còn ở sự kế thừa trong các văn bản pháp luật và quá trình áp dụng thực hiện. Đó là quan điểm lấy dân làm gốc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; tinh thần thượng tôn pháp luật; mô hình tổ chức, hoạt động của hệ thống tư pháp, các giai đoạn tố tụng được thực hiện theo quy định của pháp luật; quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân được tôn trọng, bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật;…
Hiến pháp năm 2013, bên cạnh việc có những quy định cụ thể, rò ràng hơn về quyền con người thì tại khoản 5 Điều 103 nêu rò “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Điều này có nghĩa, phán quyết cuối cùng của tòa án phải dựa vào kết quả tranh tụng tại tòa và như vậy, yêu cầu đặt ra là khá cao về bản lĩnh, nghiệp vụ chuyên môn đối với những người tham gia tố tụng, nhất là đối với HĐXX. Trong khi đó, cùng với các nguyên tắc bình đẳng, quyết định theo đa số, HTND trong TTHS luôn chiếm tỷ lệ cao hơn thẩm phán trong HĐXX càng cho thấy sự cần thiết của việc nâng cao năng lực, vai trò cả HTND trong hoạt động xét xử án hình sự.
Cơ sở thực tiễn tố tụng hình sự
Pháp luật nước ta hiện nay không những kế thừa những quan điểm chính trị pháp lý đã hình thành từ hàng chục năm trước đây, mà còn thể hiện rất rò trong Chiến lược cải cách tư pháp với việc đề cao mục tiêu bảo vệ quyền công dân, quyền con người. Luật Tổ chức TAND năm 2014, bên cạnh việc quy định về vị trí, vai trò của hội thẩm trong xét xử đã dành hẳn Chương VIII để quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn, nhiệm kỳ của hội thẩm; thủ tục bầu, cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm hội thẩm; chế độ, chính sách, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân đối với hội thẩm. So với trước đó, các quy định về hội thẩm đã có những bổ sung quan trọng nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của HTND; bảo đảm việc tham gia của hội thẩm vào công tác xét xử; đồng thời, thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử.
Theo thống kê, hiện nay cả nước có 17.299 hội thẩm, trong đó có 16.913 HTND và 386 hội thẩm quân nhân, tuy nhiên số lượng này chưa phải đã nhiều nếu