Về phạm vi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”.Về thời hạn xét xử phúc thẩm là không quá 30 ngày phải xét xử phúc thẩm đối với vụ án do Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu xét xử; không quá 60 ngày phải xét xử phúc thẩm đối với vụ án do Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự cấp cao xét xử. Thời hạn này được tính kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
Về thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ bao gồm 3 thẩm phán mà không bắt buộc phải có hội thẩm nhân dân. Chỉ trong trường hợp cần thiết thì có thể có hai hội thẩm nhân dân tham gia. Tuy nhiên qua nghiên cứu thì cho thấy thực tiễn trong thời gian này thành phần HĐXX phúc thẩm chưa có trường hợp nào có hội thẩm tham gia. Phiên tòa phúc thẩm được tiến hành tương tự như phiên tòa sơ thẩm.
Tòa án cấp phúc thẩm được quyền: bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bán án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tuy vậy, quy định quyền hủy án sơ thẩm tại Điều 222 lại chưa quy định cho Tòa án cấp phúc thẩm được huỷ án sơ thẩm trong trường hợp án sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội, đồng thời BLTTHS năm 1988 cũng chưa có quy định về thời hạn giao bản án và quyết định phúc thẩm. Thiếu quy định này dẫn đến việc chậm giao bản ản, chậm thi hành án. BLTTHS năm 1988 cũng không quy định về thủ tục rút gọn trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Mặc dù trước đó, theo Thông tư số 19/TATC ngày 12/10 1974 của Toà án nhân dân tối cao đã có những quy định cho phép áp dụng thủ tục rút gọn ở giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Như vậy, BLTTHS năm 1988 ra đời là một bước tiến mới trong hệ thống pháp luật TTHS ở nước ta, bên cạnh những ưu điểm thì Bộ luật này vẫn
còn nhiều hạn chế, mặc dù được sửa đổi, bổ sung những vẫn tồn tại những thiếu sót về quy định tính chất cua phúc thẩm, quy định về bổ sung, thay đổi hoặc rút kháng cáo, kháng nghị; quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm hoặc thủ tục phiên tòa phúc thẩm; chưa quy định về việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm… Những hạn chế thiếu sót này dần dần được khắc phục trong các Bộ luật TTHS được ban hành sau này, như BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015.
2.1.2.2. Xét xử phúc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Tính chất của phúc thẩm: xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Đó là việc Tòa án cấp trên trực tiếp mở phiên tòa để xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay.
- Những người có quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo.
Đối với những người có quyền kháng cáo thì có quyền kháng cáo bản án và quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ hay một phần bản án của Tòa án sơ thẩm. Tuy vậy, người được Tòa án tuyên là vô tội cũng có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ vô tội, nếu họ thấy lý do mà Tòa án đưa ra đối với sự vô tội của họ không đúng với thực tế khách quan, xúc phạm đến danh dự của họ. Quyền kháng cáo của bị cáo do chính bị cáo thực hiện hoặc ủy quyền cho người bào chữa thực hiện. Nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì người bào
chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo mà không cần phải có sự ủy quyền của bị cáo.
Có thể bạn quan tâm!
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 2
- Phân Biệt Xét Xử Phúc Thẩm Với Giám Đốc Thẩm, Tái Thẩm
- Các Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Xét Xử Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Trước Khi Ban Hành Bộ Luật Tths Năm 2015
- Thực Tiễn Xét Xử Phúc Thẩm Các Vụ Án Hình Sự Ở Đồng Nai
- Một Số Tồn Tại Và Vướng Mắc Trong Thực Tiễn Xét Xử Phúc Thẩm Các Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Đồng Nai Và Nguyên Nhân
- Yêu Cầu Đặt Ra Cho Việc Xét Xử Phúc Thẩm Trong Cải Cách Tư Pháp
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo về phần hình phạt được áp dụng đối với bị cáo, về phần bồi thường thiệt hại hoặc về việc Tòa án không kết tội bị cáo, hoặc về các quyết định khác của Tòa án. Nếu người bị hại chết thì thân nhân của người bị hại có quyền kháng cáo, nếu người bị hại là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Nếu nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghi những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệ lực pháp luật.
Về thủ tục phiên tòa phúc thẩm: Tại Điều 247 có quy định “Phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên của HĐXX phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án”. Như vậy, phần thủ tục tương tự như phần xét xử sơ thẩm và không có thay đổi nhiều so với quy định của BLTTHS năm 1988. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm cũng được hướng dẫn cụ thể hơn ở mục 4 Phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP. Tuy nhiên, về thủ tục phiên tòa phúc thẩm quy định tại
Điều 247 BLTTHS còn chung chung, nội dung điều luật không quy định từng hoạt động được diễn ra tại phiên tòa phúc thẩm mà viện dẫn hầu như toàn bộ trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm nên gây khó khăn khi áp dụng trên thực tế [24].
Về thủ tục rút gọn: BLTTHS năm 2003 có quy định về thủ tục rút gọn nhưng giai đoạn xét xử phúc thẩm không áp dụng thủ tục rút gọn.
Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm: Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
- Sửa bản án sơ thẩm;
- Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại;
- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
2.2. Quy định pháp luật TTHS về xét xử phúc thẩm VAHS trong Bộ luật TTHS năm 2015
So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 đã có một số bổ sung quan trọng về người có quyền kháng cáo và thủ tục kháng cáo, nhận và xử lý đơn kháng cáo (các điều 27, 331, 332); về kháng cáo quá hạn (Điều 335); về thụ lý, chuẩn bị xét xử phúc thẩm (các điều 340, 341, 346, 348, 349, 350, 351); về thủ tục phiên tòa, phiên họp phúc thẩm (Điều 354, Điều 362); về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (các điều 356 - 359). Một số nội dung trọng tâm của BLTTHS năm 2015 về xét xử phúc thẩm có thể được chia thành hai mục là tính chất của xét xử phúc thẩm, quyền kháng cáo, kháng nghị và mục thủ tục xét xử phúc thẩm.
2.2.1. Tính chất của xét xử phúc thẩm và quyền kháng cáo, kháng
nghị
Thứ nhất, về tính chất của xét xử phúc thẩm được ghi nhận là“việc Tòa
án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo hoặc kháng nghị”. Quy định này cũng cụ thể hóa nguyên tắc hai cấp xét xử xác định tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Thứ hai, về người có quyền kháng cáo: Theo Điều 331 BLTTHS năm 2015 thì quy định về người có quyền kháng cáo được quy định tương tự như Điều 231 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, khoản 5 Điều 331 BLTTHS năm 2015 có bổ sung thêm trường hợp “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có ngược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ” [25].
Thứ ba, về thủ tục kháng cáo: Nếu như quy định của các BLTTHS trước đây chỉ cho phép người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án cấp sơ thẩm, điều này phần nào hạn chế việc thực hiện quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng. Do đó, BLTTHS năm 2015 đã có sửa đổi bổ sung về thủ tục kháng cáo để tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền kháng cáo. Cụ thể đó là thay vì người kháng cáo chỉ được trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm, thì khoản 1 Điều 332 quy định: “Người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo”. Như vậy, người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với cả Tòa án cấp phúc thẩm. Ngoài ra, quy định về kháng nghị của VKS được quy định tại Điều 336, 337 Bộ luật TTHS năm 2015.
2.2.2. Quy định về thủ tục xét xử phúc thẩm
Trong mục thứ hai về thủ tục xét xử phúc thẩm, quy định về một số nội dung quan trọng như sau:
Thứ nhất, xét về quy định Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm (Điều 344): Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về thẩm quyền
của 04 cấp Tòa án. Để phù hợp với quy định này tại Điều 344 thì BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền xét xử phúc thẩm như sau:
Đối với trường hợp bản án, quyết định của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị, thẩm quyền xét xử phúc thẩm thuộc về TAND cấp tỉnh. Đối với bản án, quyết định của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm thuộc về Tòa án nhân dân cấp cao. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm thuộc về Tòa án quân sự cấp quân khu. Cuối cùng, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm thuộc về Tòa án quân sự trung ương. Quy định trên là tương đối phù hợp với phân cấp Tòa án theo quy đinh của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Thứ hai, về phạm vi xét xử phúc thẩm: Theo quy định thì Toà án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, Toà án cấp phúc thẩm cũng có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị. Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét nếu thấy cần thiết. Nếu có điểm cần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để bảo đảm sự công bằng và nhân đạo, Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét phần bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị (Điều 345).
Thứ ba, về quy định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Theo quy định tại Điều 347 Bộ luật này thì việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế do Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định sau khi thụ lý vụ án. Khi áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn cũng như các biện pháp cưỡng chế, do Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định. Riêng
quy định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam thẩm quyền chỉ thuộc về Chánh án, Phó Chánh án Tòa án. Quy định này có khác so với Điều 243 BLTTHS năm 2003 (Quy định cho cả thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm TAND tối cao quyết định cũng có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam) [25].
Thứ tư, về thủ tục phiên tòa phúc thẩm: Khi xây dựng BLTTHS năm 2015, một trong những yêu cầu quan trọng là đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Nguyên tắc này phải được thể hiện trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Do đó, ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, BLTTHS 2015 cũng đã có những nội dung sửa đổi, bổ sung để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng. Những quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa và thủ tục tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm được tiến hành tương tự như phiên tòa sơ thẩm.
Thứ năm, về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm (Điều 355):
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm được kế thừa quy định của BLTTHS năm 2003 và chỉ bổ sung thẩm quyền “Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm” vào quy định của Điều này. Thực ra quy định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đã được BLTTHS năm 2003 quy định tại Điều 238 “Bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị”. Cụ thể như sau:
Một là, không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm (Điều 356): Quy định này đã có từ BLTTHS năm 2003, tuy nhiên chưa được quy định trong một Điều luật, do đó Điều 356 là một điều luật mới trong BLTTHS năm 2015. Việc bổ sung quy định này nhằm cụ thể một trong những quyền hạn của HĐXXPT, đảm bảo các quy định về quyền hạn của HĐXXPT được đầy đủ, rò ràng hơn. Khi xét thấy các quyết định của bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật thì HĐXXPT không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Điều luật không giải thích thế nào là bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật, tuy nhiên có thể được hiểu
là những bản án không có vi phạm những quy định pháp luật, bao gồm cả quy định của BLHS, BLTTHS cũng như các văn bản pháp luật khác, đồng thời những kết luận trong bản án phải phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, các quyết định được nêu trong bản án phải phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội.
Hai là, sửa bản án sơ thẩm (Điều 357): Sửa bản án sơ thẩm vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Khi thỏa mãn các điều kiện do Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định, HDXXPT có thể sửa bản án sơ thẩm. Việc sửa bản án sơ thẩm có thể theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng tăng nặng đối với bị cáo.
HĐXXPT có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Theo khoản 1 Điều 357 quy định những trường hợp sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo, đó là miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; áp dụng điều khoản BLHS năm 2015 về tội nhẹ hơn; giảm hình phạt; chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn cho bị cáo; giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo; giảm mức bồi thường thiệt hại; sửa quyết định xử lý vật chứng theo hướng có lợi cho bị cáo.
Như vậy, khi có căn cứ xác định quyết định trong bản án sơ thẩm không phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc phát hiện các tình tiết mới thì HĐXXPT có quyền sửa bản án sơ thẩm. Việc sửa bản án sơ thẩm trong trường hợp này thường theo hướng có lợi cho bị cáo. Cụ thể:
- Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố là có tội và áp dụng hình phạt hoặc miễn hình phạt, nếu có căn cứ “do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”;