Một Số Vấn Đề Lý Luận Chung Về Công Tác Kháng Nghị Phúc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam


6. Ý nghĩa của luận văn

Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS theo Luật TTHS Việt Nam hiện hành, cũng như thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND trên địa bàn tỉnh Hà Giang (những năm 2010 - 2014), tác giả đề xuất một số định hướng nhằm góp phần hoàn thiện các quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS BLTTHS năm 2015 (gồm 510 Điều). Xác định được sự cần thiết của việc đề xuất một số định hướng nhằm hoàn thiện kháng nghị phúc thẩm VAHS, nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm VAHS của theo Luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chương 2. Thực trạng các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng các qui định này trên địa bàn tỉnh Hà Giang (những năm 2010 - 2014)

Chương 3: Định hướng nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.


Chương 1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) - 3

1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự

Trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, Viện Công tố đã được thành lập và tồn tại trong hệ thống tổ chức của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cơ quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án. Các Công tố viên thuộc cơ quan Toà án làm nhiệm vụ buộc tội, nhân danh nhà nước trước phiên toà trong các VAHS. Khi công tố còn là một bộ phận của Toà án thì quyền kháng nghị đã được quy định tại văn bản pháp lý đầu tiên là Sắc lệnh số 13 ngày 24- 01-1946 của Chủ tịch nước đã qui định quyền kháng nghị tại Điều thứ 34 “Toà đại hình xử sơ thẩm. Ông Biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm” [11. , tr.4]. Trong Chương VI của Hiến pháp 1946, từ Điều 63 đến Điều 69 quy định về các cơ quan tư pháp, trong đó nói rõ các cơ quan tư pháp chỉ có Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp. Ngày 05-12-1957 Thông tư số 141-HCTP của Bộ tư pháp ra đời tại điểm “c” Điều 1 mục II đã qui định “Ông Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của Bộ tư pháp có nhiệm vụ kháng nghị đối với Bản án hoặc Nghị quyết của Tòa án xét không đúng pháp luật” [9. , tr.6]. Đến năm 1958, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án trực thuộc Hội đồng Chính phủ và hình thành hệ thống cơ quan nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương, hoạt động chủ yếu vẫn là hoạt động công tố trước Toà án.

Từ Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960 đến nay, VKSND được tổ chức thành một hệ thống độc lập nhằm thiết lập một hệ thống cơ quan nhà nước mới, không chỉ thực hiện quyền công tố mà còn là cơ


quan có chức năng chuyên trách giám sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, ngăn ngừa tình trạng cục bộ địa phương, cục bộ bản vị của các ngành, các cấp. Theo Hiến pháp năm 1959, VKS ngoài chức năng công tố còn thực hiện một chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm 1980 đến Hiến pháp năm 2013, tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và hoạt động của VKS nhưng chức năng công tố vẫn giao cho VKS đảm nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” vẫn khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” [5, tr.5].

Khi bàn về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS tức là nói đến chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp mà nhà nước chỉ giao duy nhất cho VKS thực hiện, được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND và đặc biệt được cụ thể hóa trong BLTTHS.

Thực tế cho thấy một trong những lý do quan trọng giải thích tại sao công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS là một hoạt động quan trọng của VKSND là một quyền năng pháp lý mà nhà nước chỉ giao cho VKSND để kháng nghị đối với những bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm hình sự là để đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, không làm oan người vô tội, không để lọt người phạm tội, tránh được những sai lầm do xét xử sơ thẩm VAHS gây ra .Theo PGS.TS Nguyễn Thái Phúc thì:

Viện kiểm sát luôn là một hệ thống cơ quan nhà nước có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù, có vị trí độc lập trong


bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ của VKS đã được ghi nhận nhất quán trong Hiến pháp là “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân [58. , tr.13].

Với chức năng trên, trong hoạt động tố tụng, VKS có nhiệm vụ kháng nghị các bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật, nhằm bảo đảm việc áp dụng đúng pháp luật.

Trước hết, về khái niệm thế nào là kháng nghị phúc thẩm VAHS, cho đến thời điểm hiện nay chưa có một định nghĩa chung được thừa nhận và áp dụng trên phạm vi toàn quốc. BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 cũng như các văn bản pháp luật có liên quan chưa có một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm VAHS.

Mặc dù vậy, từ trước đến nay đã có một số tác giả đưa ra định nghĩa về kháng nghị phúc thẩm VAHS.

Theo Giáo trình Công tác kiểm sát năm 2012 của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội thì: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những quyền của Viện kiểm sát được thể hiện bằng một văn bản pháp lý thể hiện quan điểm không thống nhất với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm vì xét xử thiếu căn cứ, không hợp pháp và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án đó đúng pháp luật” [32, tr.70]

Tác giả Lê Thành Dương cho rằng:

Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo


thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời [27. , tr.32].

Theo tác giả Lê Thanh Biểu thì lại cho rằng:

Khi VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên toà sơ thẩm hình sự, nếu xét thấy bản án và quyết định của Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc sai phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật hình sự, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, xã hội và mọi quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng thì VKS phải có trách nhiệm yêu cầu đưa vụ án lên Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại bằng quyền năng pháp lý do luật định đó là kháng nghị phúc thẩm [10, tr. 4].

Các quan điểm trên, về cơ bản đã thể hiện rõ ràng, xúc tích, tuy nhiên có một nhược điểm là không nêu rõ VKS cấp nào được kháng nghị đối với bản án (quyết định) của Tòa án cấp nào, ngang cấp hay cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm.

Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật’ [68. , tr. 235].

Tiếp thu lý luận của các tác giả nghiên cứu về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS, tác giả luận văn cho rằng, các khái niệm nêu trên chưa thể hiện đầy đủ bản chất của kháng nghị phúc thẩm VAHS, bởi kháng nghị phúc thẩm VAHS là một quyền năng pháp lý riêng biệt mà nhà nước chỉ giao cho VKSND và phải đánh giá là kháng nghị phúc thẩm VAHS là để khắc phục các vi phạm nghiêm trọng đối với bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự chưa có hiệu lực pháp luật. Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú thì:


Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý đặc thù của VKSND, do người có thẩm quyền thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại Bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án sơ thẩm nhưng xét thấy không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai lầm trong bản án và quyết định đó [79. , tr.13].

Khái niệm trên đã cho rằng VKS yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là chưa hoàn toàn chính xác, bởi khi dùng từ “xét lại bản án, quyết định sơ thẩm…”, vấn đề này chắc chắn sẽ gây hiểu lầm sang việc xét lại bản án (quyết định) theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, mà thực chất là xét xử phúc thẩm VAHS là việc xét xử lại ở cấp thứ hai.

Theo tác giả Trần Thị Minh Ngọc nêu trong luận văn thạc sỹ luật học: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà Nước chỉ giao cho VKS các cấp thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Thông qua việc kháng nghị phúc thẩm hình sự, VKS bảo vệ quan điểm truy tố, đồng thời nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật [57. , tr. 24].

Khái niệm trên có nội dung toàn diện hơn, tuy nhiên quá rườm rà, không cô đọng. Để đưa ra một khái niệm đúng với bản chất của nó, trước hết phải nghiên cứu một cách tổng thể đến hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, nghiên cứu thế nào là thủ tục tố tụng hình sự và phân biệt thủ tục tố tụng hình sự với các thủ tục tố tụng khác.


Theo cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Lê Hữu Thể, TS. Đỗ Văn Đương, ThS. Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ biên) đưa ra định nghĩa về thủ tục tố tụng:

Thủ tục tố tụng theo nghĩa rộng là trình tự, điều kiện, các bảo đảm chung, thống nhất và có tính bắt buộc phải tuân thủ theo luật định đối với toàn bộ hoạt động tố tụng cũng như đối với từng giai đoạn tố tụng, từng hành vi tố tụng cụ thể, đối với các quyết định tố tụng và đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tố tụng, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. [80. , tr.23]

Từ định nghĩa về thủ tục nêu trên, cho thấy, thủ tục TTHS là loại tố tụng đặc thù, khác với tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật trong tố tụng không làm mất đi mối liên hệ chặt chẽ giữa các qui phạm pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau, hoạt động TTHS không chỉ là lĩnh vực áp dụng các qui phạm pháp luật hình sự mà trong phạm vi nhất định còn có một số chế định của quan hệ dân sự cũng được áp dụng, chẳng hạn như: Giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS, các qui định hành chính cũng được áp dụng để quản lý, điều hành trong việc giải quyết VAHS.

Trong quá trình tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của BLTTHS bởi lẽ mọi vi phạm pháp luật hoặc việc áp dụng pháp luật không đầy đủ có thể dẫn đến việc xử lý oan, sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tổn hại đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật. Việc nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của BLTTHS không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan


tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là nhiệm vụ của những người tham gia tố tụng. VKS là một trong những cơ quan tư pháp tiến hành các hoạt động tố tụng xuyên suốt ngay từ giai đoạn tin báo tố giác về tội phạm, đến khi bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm có hiệu lực thi hành và được thi hành. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình VKS bảo đảm cho mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được tiến hành nghiêm chỉnh, thống nhất theo quy định của pháp luật.

Trước khi đưa ra khái niệm thế nào là kháng nghị phúc thẩm VAHS tác giả luận văn cho rằng, cần phải hiểu „Kháng nghị” là gì và “Phúc thẩm” là gì.

Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, thuật ngữ “Kháng nghị” được hiểu là sự bày tỏ ý kiến phản đối bằng văn bản chính thức [78. , tr.492]; còn “Phúc thẩm” được hiểu là (Tòa án cấp trên) xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xử sơ thẩm mà có chống án [78. , tr.790]. Theo từ điển Luật học thì:

Kháng nghị là quyền mà pháp luật qui định cho Viện kiểm sát và những người có thẩm quyền ra văn bản kháng nghị, làm ngưng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong Bản án hoặc quyết định đã tuyên để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật [77. tr. 53. và 404];

“Phúc thẩm” là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những Bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị, nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của Bản án, quyết định sơ thẩm, sửa lại những sai lầm và vi phạm của Tòa án sơ thẩm, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật [77. , tr.378].

Xem tất cả 111 trang.

Ngày đăng: 19/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí