Thẩm Quyền Kháng Nghị Phúc Thẩm Hình Sự

đầy đủ để KNPT trong trường hợp này đôi khi còn trừu tượng và khó xác định được như thế nào là chưa đầy đủ, tùy thuộc vào nhận thức đánh giá khác nhau ở mỗi người. Tuy nhiên, để được xem là căn cứ KNPT thì việc điều tra, xét hỏi không đầy đủ này phải làm cho việc đánh giá tính chất vụ án không đúng đắn.

Căn cứ thứ hai: Kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án;

Khi xét xử, HĐXX ra phán quyết thể hiện quan điểm giải quyết vụ án dựa trên những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả điều tra công khai tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó HĐXX đã kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm một cách chủ quan, không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án (những gì có thật, tồn tại bên ngoài ý muốn chủ quan của con người). Hậu quả dẫn đến việc HĐXX không đánh giá hoặc đánh giá không đúng tính chất của vụ án, mức độ của hành vi phạm tội nên VKS cần phải kháng nghị phúc thẩm để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, đánh giá lại vụ án, đảm bảo chính xác, khách quan và đó là một trong những căn cứ để VKS thực hiện quyền KNPT.

So với căn cứ kháng nghị GĐT được quy định tại Điều 371 BLTTHS 2015 thì căn cứ KNPT này hoàn toàn giống nhau. Theo đó, kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án là căn cứ kháng nghị GĐT có thể là một trong những trường hợp sau đây [88, tr557]: thứ nhất bản án, quyết định đã không dựa vào những tình tiết có thật của vụ án trong khi những chứng cứ, tài liệu đó đã được điều tra, xác minh tại phiên tòa; thứ hai Tại phiên tòa HĐXX không xem xét những tài liệu, chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Tòa án dựa vào đó để kết luận về vụ án; thứ ba Những tài liệu chứng cứ chưa được kiểm tra xác minh tại phiên tòa nhưng nó phản ánh không đúng bản chất của vụ án đã xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng đã không thu thập, điều tra làm rò tài liệu chứng cứ đó nên bản án, quyết định đã không phản ánh đúng thực tế.

Tuy vậy, thực tiễn vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau về căn cứ này. Quan điểm thứ nhất cho rằng kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án là khi chúng không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được điều tra, xác minh tại phiên tòa [89, tr27]. Quan điểm thứ

hai lại cho rằng kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án là khi kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm đó không đảm bảo các quy định của pháp luật về vấn đề xem xét, đánh giá chứng cứ, vi phạm các nguyên tắc chứng minh đã được pháp luật quy định [21, tr39]. Quan điểm thứ ba lại phân chia thành 7 trường hợp cụ thể để giải thích như thế nào “không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án” [11, tr24].

Nói tóm lại, dù có nhiều cách hiểu khác nhau về căn cứ này nhưng chúng đều đi đến một điểm chung là đòi hỏi khi KNPT, VKS phải viện dẫn được chứng cứ để sử dụng nhằm làm rò tình tiết khách quan của vụ án. Sau đó, đối chiếu với việc đánh giá của kết luận, quyết định trong bản án, quyết định sơ thẩm nhằm chỉ rò sự không phù hợp, mâu thuẫn trong bản án, quyết định sơ thẩm.

Căn cứ thứ ba: Có sai lầm trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác;

Nếu so với quy chế cũ (Quy chế 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007) thì căn cứ kháng nghị này có phạm vi được mở rộng hơn. Thực tiễn xét xử cho thấy, Tòa án không chỉ vi phạm trong việc áp dụng các quy định của BLHS mà còn có những vi phạm liên quan đến việc áp dụng các quy định pháp luật chuyên ngành khác, liên quan vấn đề về bồi thường thiệt hại, vật chứng. Việc mở rộng phạm vi của căn cứ kháng nghị này là hợp lý. Sai lầm trong việc áp dụng các quy định của BLHS có thể ở phần chung của BLHS (miễn TNHS, miễn hình phạt, quyết định hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ…) hoặc trong phần các tội phạm cụ thể (hành vi không cấu thành tội phạm, khung và loại hình phạt không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,..). Sai lầm trong việc áp dụng các quy định trong Bộ luật dân sự như vấn đề bồi thường thiệt hại, người đại diện theo pháp luật của những người tham gia tố tụng, về quyền sở hữu tài sản,…Việc sai lầm này có thể làm oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Trong khoa học pháp lý hình sự, khái niệm “oan” được hiểu là trường hợp không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm, do bị vu cáo, dựng vụ án giả hoặc hành vi do người khác thực hiện nhưng một người vẫn bị điều tra, truy tố, xét xử và kết tội. Khái niệm về “sai” có thể được hiểu là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và

người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự một cách không khách quan, không đầy đủ, trái với quy định của pháp luật [1, tr 25].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, thực tiễn việc sai lầm trong áp dụng các quy định của BLHS, Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác có thể dẫn đến hậu quả oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng; cũng có những sai lầm nhưng chưa đến mức ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng thì VKS có cần thiết phải KNPT hay không? Vì như thế sẽ làm kéo dài việc giải quyết vụ án, tốn kém chi phí, thời gian của nhà nước và người dân. Theo PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn thì chỉ nên kháng nghị đối với những trường hợp vi phạm trong việc áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng [64, tr48]. Quan điểm của tác giả luận văn hoàn toàn đồng ý với quan điểm này nên cần sửa đổi quy định về căn cứ kháng nghị này: “có sai lầm trong áp dụng BLHS, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác phải dẫn đến việc thay đổi sự thật của vụ án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tiến hành tố tụng”.

Căn cứ thứ tư: Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 5

Thành phần của HĐXX chỉ có trong các vụ án được giải quyết theo thủ tục thông thường (thủ tục rút gọn chỉ do một Thẩm phán xét xử). Theo quy định tại Điều 254 BLTTHS thì HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc đối với vụ án có bị cáo bị xét xử về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì HĐXX sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Hoặc đối với người phạm tội dưới 18 tuổi thì Thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi (khoản 1 Điều 423 BLTTHS). Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định là khi không đầy đủ số lượng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân theo quy định nêu trên, hoặc thành phần HĐXX tại phiên tòa sơ thẩm không đúng như thành phần HĐXX được nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Căn cứ này cũng quy định trường hợp có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng thì VKS cũng có thể thực hiện quyền KNPT. Nhưng hiểu như thế nào là “vi phạm nghiêm trọng” cũng là một vấn đề có nhiều ý kiến gây tranh cãi. Vấn đề này chúng ta có thể tham khảo Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS 2003, tại mục 4 phần I hướng dẫn Điều 179 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường hợp BLTTHS quy định bắt buộc phải tiến hành hoặc tiến hành theo thủ tục đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bỏ qua hoặc thực hiện không đúng xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện” [81]; Thông tư 02/2017/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung, trong đó Điều 2 giải thích thuật ngữ “Xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia tố tụng, có thể gây ra cho họ thiệt hại về vật chất, tinh thần” [105].

Tuy cả hai văn bản trên đều hướng dẫn cho trường hợp trả điều tra bổ sung nhưng chúng ta cũng có thể dựa vào đó để giải thích, hiểu tương tự thuật ngữ “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” trong căn cứ KNPT. Như vậy, có thể hiểu căn cứ KNPT khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là khi cơ quan tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ một thủ tục bắt buộc nào đó mà BLTTHS quy định, làm ảnh hưởng trực tiếp, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo, những người tham gia tố tụng hoặc có thể gây ra cho họ thiệt hại về vật chất, tinh thần.

Ngoài ra, tác giả Đinh Văn Quế còn có quan điểm khác khi cho rằng “Chỉ những sai lầm thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm thì mới kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm không có thẩm quyền quyết định thì dù bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng cũng không phải là

căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, mà chỉ có thể kháng nghị theo thủ tục GĐT hoặc tái thẩm” [48, tr24]. Tác giả lấy dẫn chứng trường hợp VKS kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định miễn TNHS của Tòa sơ thẩm và cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm không thể quyết định buộc bị cáo phải chịu TNHS mà việc kháng nghị và quyết định này thuộc thẩm quyền GĐT. Tuy nhiên, quan điểm này của tác giả đã không còn phù hợp. Bởi trong trường hợp này, Điều 358 BLTTHS 2015 cho phép Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để buộc bị cáo phải chịu TNHS.

Hiện tại, các căn cứ KNPT chưa được quy định trong BLTTHS mà chỉ quy định trong một văn bản là quyết định kèm theo quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân nên không có giá trị bắt buộc thi hành đối với ngành Tòa án. Trong khi đó, căn cứ KNPT là một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định việc kháng nghị của VKS là đúng hay sai, cần thiết hay không cần thiết. Vì vậy, cần thiết phải quy định căn cứ KNPT trong BLTTHS để đảm bảo có sự nhận thức pháp luật thống nhất của các cơ quan áp dụng pháp luật, nhất ngành Tòa án. Thực tế đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng Tòa án không chấp nhận KNPT của VKS vô căn cứ.

2.3. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự

Điều 336 BLTTHS năm 2015 quy định “Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm” [61]. Như vậy, chủ thể có thẩm quyền kháng nghị là VKS cùng cấp với Tòa án sơ thẩm và VKS cấp trên trực tiếp. Việc quy định VKS cấp trên trực tiếp có quyền KNPT, một mặt thể hiện sự kiểm tra, giám sát của cấp trên trực tiếp trong ngành Kiểm sát nhân dân, một mặt kịp thời khắc phục những hạn chế của VKS cấp dưới khi không phát hiện những vi phạm, sai lầm của Tòa án hoặc vì một lý do nào đó mà VKS cấp dưới không KNPT. Đó là trường hợp khi có những vụ án mà thời hạn kháng nghị của VKS cấp dưới đã hết, nhưng vẫn còn thời hạn KNPT của VKS cấp trên, hoặc VKS cùng cấp với Tòa án cấp xét xử có quan điểm xét xử phù hợp với phán quyết của HĐXX nên đã không KNPT. Điều 41 BLTTHS 2015 quy định nhiệm vụ quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng được phân công THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS có quyền KNPT bản án, quyết định của Tòa án theo quy

định. Trên cơ sở quy định của BLTTHS 2015, Quy chế 505 quy định tại Điều 36 như sau: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện kháng nghị phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực phá kháng nghị phúc thẩm KNPT bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp cao kháng nghị phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi theo thẩm quyền lãnh thổ. Đối với những vụ án mà lãnh đạo VKS cấp trên đã có ý kiến chỉ đạo trong quá trình THQCT, kiểm sát điều tra hoặc ủy quyền THQCT và KSXX sơ thẩm, nếu KNPT phải báo cáo Viện trưởng VKS cấp trên xem xét, quyết định. Như vậy, Viện trưởng VKS có quyền KNPT bản án, quyết định sơ thẩm, còn Phó Viện trưởng khi được phân công THQCT và KSXX thì mới có quyền KNPT.

VKS cùng cấp với Tòa án sơ thẩm và VKSND cấp trên trực tiếp đều có quyền KNPT nên trên thực tế sẽ xảy ra hai trường hợp: Thứ nhất nếu hai quyết định KNPT có tính chất bổ sung cho nhau thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ chấp nhận để xét xử phúc thẩm đối với cả hai KNPT. Thứ hai nếu hai quyết định KNPT mâu thuẫn mà VKS cấp trên không rút hoặc hủy bỏ KNPT của cấp dưới thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ chấp nhận xét xử phúc thẩm đối với KNPT của VKS cấp trên. Bởi theo quy định Điều 109 Hiến pháp năm 2013 ngành kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc Viện trưởng lãnh đạo (nguyên tắc thủ trưởng chế).

2.4. Thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự

Qua kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, nếu VKS cùng cấp nhận thấy có những căn cứ KNPT mà còn thời hạn thì KSV báo cáo, đề xuất lãnh đạo VKS quyết định KNPT; còn nếu quá hạn thì phải báo cáo VKS cấp trên trực tiếp để quyết định KNPT. Khi ban hành quyết định KNPT thì phải đảm bảo cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Về hình thức: theo quy định khoản 2 Điều 38 Quy chế 505 thì KNPT phải thể hiện bằng văn bản thống nhất do VKS tối cao ban hành, đó là Mẫu 15 ban hành kèm theo Quy chế 505. Về nội dung: Quyết định KNPT phải đảm bảo các nội dung chính gồm ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng nghị; Tên của VKS ra quyết định kháng nghị; Kháng nghị đối với toàn bộ hay một phần bản án, quyết định sơ thẩm; Lý do, căn cứ kháng

nghị và yêu cầu của VKS; Họ tên, chức vụ của người ký quyết định kháng nghị. Đồng thời theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Quy chế 505 thì nội dung KNPT còn phải nêu cụ thể những vi phạm pháp luật của bản án, quyết định về đánh giá chứng cứ, về vận dụng chính sách pháp luật hoặc về áp dụng thủ tục tố tụng và nêu quan điểm cụ thể của VKS về việc giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là quyết định KNPT phải nêu lý do, căn cứ kháng nghị và yêu cầu của VKS. Việc BLTTHS quy định quyết định KNPT phải nêu rò căn cứ kháng nghị, trong khi căn cứ kháng nghị lại không được quy định trong BLTTHS (như đã phân tích phần trên) là không hợp lý.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 338 BLTTHS, sau khi KNPT được ban hành thì trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định kháng nghị, VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp đã ban hành KNPT phải gửi quyết định KNPT kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, đồng thời phải gửi quyết định KNPT cho bị cáo và những người liên quan đến kháng nghị. Trường hợp, VKS cùng cấp với Tòa sơ thẩm kháng nghị thì KNPT phải gửi cho VKS cấp trên trực tiếp. Ngược lại, VKS cấp trên trực tiếp KNPT thì phải gửi quyết định KNPT cho VKS cùng cấp với Tòa sơ thẩm. Đây là quy định mới, hợp lý hơn so với Điều 236 BLTTHS năm 2003, tránh tình trạng kéo dài thủ tục thông báo kháng nghị một cách không cần thiết, nâng cao trách nhiệm của VKS khi ban hành quyết định KNPT, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho VKS cấp trên có thẩm quyền KNPT có thể xem xét bổ sung, thay đổi hoặc rút kháng nghị của VKS cấp dưới.

Khi bị cáo, những người liên quan đến kháng nghị nhận được KNPT của VKS hoặc thông báo KNPT của Tòa án thì có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung KNPT cho Tòa án cấp sơ thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án chuyển cho Tòa phúc thẩm hoặc gửi đến Tòa án cấp phúc thẩm.

2.5 Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự

Một trong những điều kiện xác định KNPT của VKS hợp pháp, làm phát sinh trình tự xét xử phúc thẩm thì KNPT đó phải còn trong thời hạn do pháp luật quy định. Thời hạn KNPT các vụ án hình sự là khoảng thời gian cần thiết theo quy định

của BLTTHS để VKS có thẩm quyền thực hiện quyền KNPT. Điều 337 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. 2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.” [61]. Thời hạn kháng nghị được tính từ thời điểm bắt đầu đến thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị. Hết thời hạn KNPT thì VKS mất quyền kháng nghị, bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật.

Mặc dù, BLTTHS quy định rò về thời hạn KNPT như trên nhưng thực tiễn áp dụng vẫn còn có những cách hiểu khác nhau về thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hạn KNPT. Để nhận thức và áp dụng một cách thống nhất quy định này, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ- HĐTP ngày 08/12/2005 hướng dẫn về cách tính thời hạn kháng nghị tại tiểu mục

4.1 mục 4 phần I như sau: “Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định, ngày được xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định và thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị là ngày cuối cùng của thời hạn, nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó ...Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó” [82]. Tuy nhiên, về cách tính thời điểm bắt đầu của thời hạn thì trong Nghị quyết này chưa đề cập đến trường hợp nếu ngày tuyên án hoặc ngày Tòa án gửi quyết định sơ thẩm cho VKS trùng vào ngày thứ sáu. Trong trường hợp này, ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật tiếp theo có được tính hay không tính vào thời hạn kháng nghị? Nghị quyết này cũng mới hướng dẫn cách xác định ngày kháng cáo mà chưa hướng dẫn cách xác định ngày KNPT. Do đó, xung quanh vấn đề này hiện tại còn có những quan điểm

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí