CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
2.1.1. Tổng quan về trái phiếu
2.1.1.1. Khái niệm
- Trái phiếu là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành phải trả cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền xác định bao gồm khoản cho vay ban đầu và lãi trong những khoảng thời gian cụ thể.
- Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành (Luật Chứng khoán của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006).
Như vậy có thể hiểu trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền vay cụ thể ghi trên trái phiếu (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định (thời hạn của trái phiếu) và với một mức lãi suất quy định (lãi suất coupon). Khác với người chủ sở hữu cổ phiếu giữ vai trò là người chủ sở hữu công ty, người mua trái phiếu (trái chủ) là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn vay của người vay. Do đó, thu nhập của trái chủ từ trái phiếu (tiền lãi hay còn gọi là lợi tức) là khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng mua bán trái phiếu. Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản thì trước hết doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thanh toán cho các trái chủ trước, sau đó mới chia tài sản còn lại cho các cổ đông.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Các Nghiên Cứu Về Tổ Chức Hoạt Động Đầu Tư/đầu Tư Trái Phiếu Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Giá Trị Khoa Học Và Thực Tiễn Của Các Nghiên Cứu Đã Công Bố
- Khái Niệm Và Các Hình Thức Đầu Tư Trái Phiếu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tính Hai Mặt Trong Hoạt Động Đầu Tư Trái Phiếu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Mô Hình Nghiên Cứu Tác Động Của Hoạt Động Đầu Tư Trái Phiếu Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 247 trang tài liệu này.
2.1.1.2. Đặc điểm của trái phiếu
- Trái phiếu là chứng khoán nợ và có thời hạn. Đến ngày đáo hạn, người sở hữu trái phiếu được tổ chức phát hành hoàn trả số tiền theo mệnh giá.
- Thông thường trái phiếu có lợi tức được xác định trước. Tùy theo từng loại trái phiếu mà lợi tức có thể là cố định hoặc thay đổi theo lãi suất thị trường.
- Mệnh giá trái phiếu luôn được thể hiện trên bề mặt của trái phiếu.
- Trái phiếu có thể chuyển nhượng cho người khác sở hữu (chuyển nhượng tự do hoặc có điều kiện).
- Quan hệ kinh tế - tài chính giữa người nắm giữ trái phiếu và tổ chức phát hành là quan hệ giữa chủ nợ và khách nợ. Người đầu tư nắm giữ trái phiếu không có quyền tham gia quản lý hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành trái phiếu, nhưng được ưu tiên phân chia tài sản của doanh nghiệp phát hành trước cổ đông (chủ sở hữu cổ phiếu) nếu tố chức phát hành tuyên bố phá sản.
2.1.1.3. Phân loại trái phiếu
2.1.1.3.1. Căn cứ vào chủ thể phát hành
* Trái phiếu doanh nghiệp (Corporate Bond) : Là loại trái phiếu do các công ty phát hành nhằm mục đích huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư của doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc, lãi và các nghĩa vụ khác (nếu có) của doanh nghiệp đối với chủ sở hữu trái.
Ngoài các đặc điểm chung của trái phiếu, trái phiếu doanh nghiệp còn có các đặc điểm sau:
+ Hầu hết trái phiếu, tiền lãi trả cho trái chủ không phụ thuộc vào mức lợi nhuận của công ty phát hành trừ trái phiếu thu nhập (Income Bond).
+ Trái chủ không có quyền bỏ phiếu và tham gia vào các hoạt động quản lý công ty.
+ Trái phiếu đem lại cho trái chủ quyền ưu tiên phân chia tài sản khi công ty bị giải thể, hoặc phá sản (được ưu tiên hoàn trả trước khi hoàn vốn cho các chủ sở hữu của công ty).
Trái phiếu công ty bao gồm nhiều loại như: trái phiếu không có đảm bảo, trái phiếu có đảm bảo, trái phiếu thu nhập, trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có thể thu hồi... Mỗi loại thường chỉ khác nhau một số chi tiết nhỏ.
- Trái phiếu không có bảo đảm (Non-secured Bond): là loại trái phiếu khá thông dụng, nó được bảo đảm bằng uy tín của doanh nghiệp phát hành.
- Trái phiếu được bảo đảm (Secured Bond): là trái phiếu mà doanh nghiệp đem tài sản cụ thể của mình đảm bảo cho khả năng hoàn trả vốn cho trái chủ. Việc phát hành sẽ thông qua một tổ chức tài chính có khả năng bảo lãnh phát hành. Nếu doanh nghiệp không thanh toán trái phiếu đúng hạn thì trái chủ có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng phát mại tài sản đó để thu hồi vốn và trái tức.
- Trái phiếu cầm cố (Mortage Bond): là trái phiếu được phát hành trên cơ sở vật cầm cố của doanh nghiệp, thường là bất động sản.
- Trái phiếu được bảo lãnh (Guaranteed Bond): là trái phiếu được một tổ chức khác đứng ra bảo lãnh thanh toán trái tức và vốn của trái phiếu đó khi trái phiếu không được thanh toán đúng hạn. Tổ chức bảo lãnh thường là các ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm...
- Trái phiếu thu nhập (Income Bond): là loại trái phiếu mà việc thanh toán lãi trái phiếu cho trái chủ phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phát hành; có lãi thì chia, không có lãi thì thôi, không có quy định tích lũy trái tức. Loại trái phiếu này thường phát hành khi doanh nghiệp mới phục hồi, giá bán của nó thường thấp hơn mệnh giá.
- Trái phiếu chuyển đổi (Convertible Bond): là loại trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu thường nếu như nó đáp ứng được các điều kiện chuyển đổi. Việc phát hành loại trái phiếu này nhằm làm tăng tính hấp dẫn cho đợt phát hành. Khi phát hành tổ chức phát hành thường quy định giá chuyển đổi, tỉ lệ chuyển đổi, thời gian chuyển đổi.
- Trái phiếu có thể thu hồi (còn gọi là trái phiếu hoàn vốn - Callable Bond): là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể hoàn vốn cho trái chủ trước thời hạn. Việc hoàn vốn này có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong thời hạn của trái phiếu, hoặc cũng
có thể quy định sau một thời hạn nào đó kể từ khi phát hành.
* Trái phiếu chính phủ (Government Bond): là công cụ vay nợ của Chính phủ nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách và xây dựng các công trình công cộng. Đây là loại chứng khoán an toàn nhất vì có nguồn ngân sách nhà nước đảm bảo nên giá TPCP trên thị trường thường ít biến động.
Có nhiều loại trái phiếu chính phủ: Theo thời gian lưu hành: Tín phiếu kho bạc (Treasury Bill), Tín phiếu kho bạc trung hạn (Treasury Notes), Trái phiếu kho bạc (Treasury Bond). Theo mục đích huy động trong từng đợt phát hành: công trái quốc gia, trái phiếu công trình (trái phiếu đầu tư), trái phiếu giáo dục, v.v...
* Trái phiếu chính quyền địa phương: là loại trái phiếu do các cấp chính quyền địa phương phát hành nhằm huy động vốn để thực hiện các công trình cơ sở hạ tầng hoặc các dự án phát triển địa phương.
2.1.1.3.2. Căn cứ vào phương thức trả lãi
- Trái phiếu trả lãi trước (trái phiếu chiết khấu): Là loại trái phiếu khi phát hành, tổ chức phát hành thanh toán ngay tiền lãi trái phiếu cho người mua bằng cách khấu trừ tiền lãi vào mệnh giá. Trái phiếu này có đặc điểm là được phát hành theo giá chiết khấu, tiền lãi được thanh toán một lần vào thời điểm phát hành, khi đến hạn thanh toán, tổ chức phát hành chỉ hoàn trả số tiền bằng mệnh giá của trái phiếu.
- Trái phiếu trả lãi định kỳ: Là trái phiếu mà trái tức được thanh toán cho trái chủ theo những định kỳ nhất định nào đó (thông thường là 6 tháng hoặc một năm). Đến những định kỳ đã cam kết, trái chủ được tổ chức phát hành thanh toán trái tức của kỳ trả lãi.
- Trái phiếu trả lãi sau: Là loại trái phiếu mà toàn bộ trái tức được thanh toán một lần vào thời điểm trái phiếu đáo hạn. Trái tức được xác định căn cứ vào mệnh giá, lãi suất, thời hạn của trái phiếu và được thanh toán cho trái chủ cùng với mệnh giá của trái phiếu.
2.1.1.3.3. Căn cứ vào tính chất lãi suất
- Trái phiếu có lãi suất cố định (fixed rate note): là loại trái phiếu có lãi suất được xác định trước và không thay đổi trong suốt thời gian lưu hành của trái phiếu.
Với loại trái phiếu này, sau khi được phát hành, trái tức luôn phải được thanh toán đúng với lãi suất mà tổ chức phát hành đã cam kết.
- Trái phiếu có lãi suất bậc thang (step - up note): là loại trái phiếu có lãi suất tăng dần theo thời gian nắm giữ. Nắm giữ càng lâu, lãi suất được hưởng càng cao hơn.
- Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi - floating rate note): là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành không ấn định một mức lãi suất cố định trong suốt thời hạn lưu hành của trái phiếu. Loại trái phiếu này, lãi suất được xác định căn cứ vào lãi suất trên thị trường vào thời điểm trả lãi để tính và trả lãi cho trái chủ. Nói cách khác, lãi suất sẽ được xác định căn cứ vào mức độ lạm phát của nền kinh tế và quan hệ cung cầu vốn trên thị trường vào các thời điểm trả lãi. Trên thực tế, khi một doanh nghiệp phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi người ta thường sử dụng một mức lãi suất nào đó (được coi là lãi suất chuẩn, ví dụ như: lãi suất trái phiếu chính phủ, lãi suất LIBOR - London Interbank Offered Rate, SIBOR - Singapore Interbank Offered Rate...) để tham chiếu và cộng thêm một mức bù rủi ro nhất định. Ví dụ: SIBOR + 0,5% đối với trái phiếu kì hạn 1 năm, SIBOR + 2% đối với trái phiếu kì hạn 5 năm.
2.1.1.3.4. Căn cứ vào trái phiếu có kèm phiếu lãi hay không
- Trái phiếu kèm phiếu lãi (Coupon Bond): là loại trái phiếu có cuống lãi (coupon) kèm theo, trên đó ghi lãi suất cùng với thời hạn của trái phiếu. Khi trả trái tức, tổ chức phát hành cắt rời phiếu lãi và trả tiền lãi cho trái chủ.
- Trái phiếu không phiếu lãi (Zero - Coupon Bond): là loại trái phiếu không có phiếu lãi đính kèm.
Ngoài ra, có thể phân loại trái phiếu theo một số tiêu thức khác như: theo thời gian hoàn vốn, trái phiếu bao gồm: trái phiếu ngắn hạn hạn, trái phiếu trung hạn, trái phiếu dài hạn; theo khả năng chuyển nhượng, trái phiếu bao gồm: trái phiếu ghi danh, trái phiếu vô danh; theo cơ sở hình thành, trái phiếu bao gồm: trái phiếu gốc và trái phiếu phái sinh - Derivatives Bonds (là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ trái phiếu và có quan hệ chặt chẽ với trái phiếu gốc như: chứng quyền (warrants), quyền
chọn (options), hợp đồng kì hạn (forward), hợp đồng tương lai (future), hợp đồng hoán đổi (swap)),v.v...
2.1.2. Thị trường trái phiếu
2.1.2.1. Khái niệm và phân loại thị trường
Thị trường trái phiếu (Bond Market), còn gọi là thị trường nợ, là thị trường phát hành và giao dịch các loại trái phiếu. Trái phiếu được phát hành lần đầu trên thị trường sơ cấp qua các phương thức như bảo lãnh, đầu thầu, đại lý, bán lẻ; sau đó được giao dịch trên thị trường thứ cấp (thị trường tập trung/bán tập trung/tự do).
Tham gia thị trường trái phiếu gồm các chủ thể chính như: tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức/định chế tài chính trung gian.
Tổ chức phát hành trái phiếu gồm: Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương; Doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng và phi tài chính). Đây là chủ thể cung cấp hàng hóa cho thị trường và có trách nhiệm công bố các thông tin về trái phiếu.
Nhà đầu tư trái phiếu gồm các tổ chức và cá nhân (trong nước và nước ngoài). Các NHTM có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua bán chứng khoán cho chính mình.
Các tổ chức/định chế tài chính trung gian gồm: công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ đầu tư (QLQĐT), các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chứng khoán như: tổ chức lưu kí chứng khoán và thanh toán bù trừ, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm, tổ chức tài trợ chứng khoán, tổ chức kiểm toán, tổ chức công nghệ thông tin TTCK…
Thị trường trái phiếu bao gồm nhiều bộ phận cấu thành tùy theo tiêu thức phân loại.
Theo hình thức tổ chức và cơ chế hoạt động, thị trường trái phiếu gồm: (i) Thị trường tập trung - Sở giao dịch (là thị trường, ở đó việc giao dịch mua bán trái phiếu được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch); (ii) Thị trường phi tập trung - thị trường OTC (là thị trường, trong đó việc giao dịch mua bán trái phiếu không diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống máy vi tính
và điện thoại kết nối giữa các thành viên của thị trường).
Theo quá trình lưu thông trái phiếu, thị trường trái phiếu gồm: (i) Thị trường sơ cấp - Primary Market (là thị trường phát hành trái phiếu mới); và (ii) Thị trường thứ cấp - Secondary Market (là thị trường diễn ra các giao dịch mua bán trái phiếu đã được phát hành trên thị trường sơ cấp).
Theo thời hạn thanh toán trái phiếu, thị trường trái phiếu gồm: (i) Thị trường giao ngay (là thị trường mà việc giao nhận và thanh toán trái phiếu được diễn ra ngay trong ngày giao dịch hoặc trong thời gian thanh toán bù trừ theo quy định); Thị trường kỳ hạn (là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và thanh toán được diễn ra sau ngày giao ngay một khoảng thời gian nhất định theo hợp đồng đã kí kết).
2.2.2.2. Các loại hình và phương thức giao dịch trên thị trường
Trên thị trường trái phiếu, có hai loại hình giao dịch phổ biến sau:
- Mua bán thông thường (outright) là giao dịch TPCP, trong đó một bên bán và chuyển giao quyền sở hữu TPCP cho một bên khác và không kèm theo cam kết mua lại trái phiếu.
- Mua bán lại (reverse repos) và bán mua lại (repos) trái phiếu: ở các thị trường phát triển, đây là nghiệp vụ giao dịch khá phổ biến nhằm phòng chống rủi ro và khai thác lợi nhuận chênh lệch (acbitrage) trên thị trường. Repos, hay hợp đồng bán và cam kết mua lại (repurchase agreement), thực chất là việc sử dụng trái phiếu có thanh khoản và chất lượng tốt làm tài sản cầm cố đi vay trên thị trường. Người bán kí hợp đồng bán và cam kết mua lại trái phiếu với người mua tại mức giá nhất định. Giao dịch này đứng ở góc độ người bán trái phiếu được gọi là repos; còn người mua được gọi là giao dịch mua và cam kết bán lại (reverse repos).
Ở các thị trường phát triển, ngoài hai loại hình trên, hoạt động đầu tư, kinh doanh trái phiếu còn được thực hiện thông qua các giao dịch kí quỹ. Giao dịch kí quỹ (margin trading), còn gọi là giao dịch bảo chứng/giao dịch trả chậm: là việc mua hoặc bán trái phiếu trong đó, nhà đầu tư chỉ có một phần tiền hoặc trái phiếu, phần còn lại do công ty chứng khoán cho vay. Có hai loại giao dịch kí quỹ: mua kí quỹ và bán khống.
Mua kí quỹ (margin buying/margin purchase), còn gọi là mua với hình thức vay số dư: là việc mua trái phiếu, trong đó, nhà đầu tư chỉ có một phần tiền, phần còn lại do công ty chứng khoán cho vay. Bằng cách giao dịch kí quỹ, những người đầu tư có thể gia tăng lợi nhuận đầu tư do giao dịch này có tác dụng đòn bẩy tài chính đối với nhà đầu tư, đồng thời giao dịch kí quỹ có thể mang lại những tác động tích cực như ổn định giá trái phiếu, tăng cường tính thanh khoản của thị trường. Tuy nhiên, giao dịch kí quỹ cũng có thể gây thiệt hại cho nhà đầu tư và gây tổn hại đến hoạt động của thị trường khi giá trái phiếu sụt giảm. Bởi vì, khi giá trái phiếu giảm, nhà đầu tư sẽ bị thua lỗ. Mặt khác, việc bán trái phiếu trong thời kì giảm giá cũng rất khó khăn, càng làm gia tăng thời hạn vay và tiền lãi phải trả. Xét về phía các tổ chức cho vay, khi không thu hồi được nợ, họ phải bán trái phiếu cầm cố của nhà đầu tư làm cho cung trái phiếu càng gia tăng, dẫn đến giá trái phiếu lại càng giảm sút…
Bán khống (short selling): là việc bán trái phiếu không do người bán sở hữu. Người kinh doanh mượn trái phiếu để thực hiện việc bán ngay và sẽ mua để trả trong tương lai. Người kinh doanh thực hiện việc bán khống khi nhận định giá trái phiếu sẽ hạ giá tới mức mà nếu bán ngay bấy giờ sẽ được một khoản lãi đáng kể. Khi vay trái phiếu để bán, người vay phải trả cho người cho vay một khoản phí nhất định. Đồng thời để đảm bảo an toàn cho người cho vay, người vay thường phải kí quỹ một lượng tài sản (có thể bằng tiền, hoặc loại chứng khoán khác…) tương đương với giá trị trái phiếu vay theo giá thị trường. Trong quá trình chưa trả nợ, nếu giá trái phiếu đó tăng thì người bán khống (người vay) phải bổ sung thêm tiền kí quỹ, ngược lại nếu giá giảm thì họ được rút bớt ra.
Về phương thức giao dịch, tùy theo quy định cụ thể của mỗi thị trường, hoạt động giao dịch trái phiếu có thể được thực hiện theo một hoặc hai phương thức: đấu giá và thỏa thuận.
Trên thế giới hiện nay tồn tại 2 hệ thống đấu giá: đấu giá theo giá (price driven system) và đấu giá theo lệnh (order driven system). Trong hình thức đấu giá theo giá, các nhà tạo lập thị trường phải luôn cho giá mua và giá bán khi khách hàng yêu cầu, đồng thời giữa các nhà môi giới - nhà tạo lập thị trường phải cạnh tranh với