vốn đăng ký và vốn thực hiện của năm 2008 đều đạt mức đỉnh điểm kể từ khi nước ta thực thi Luật Đầu tư. Cho nên, dự đoán trên là hoàn toàn có căn cứ. Đó là:
+ Việt Nam đó tạo được sự ổn định kinh tế vĩ mô. Thể hiện là, các chỉ số lạm phát và thâm hụt thương mại đang được cải thiện dần, đồng thời mối lo về cuộc khủng hoảng tiền tệ đó cú phần dịu bớt, dẫn đến tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đó cú phần chững lại. Thanh toỏn quốc tế vẫn được duy trỡ ổn định, sự căng thẳng thâm hụt trong cán cân thanh toán đang dần được cải thiện, dự trữ ngoại tệ được bảo tồn và tăng thêm. Thị trường nội tệ và ngoại tệ đó cú sự ổn định trở lại, tỉ giá giữa đồng VN và USD trên thị trường “chợ đen” đó xớch lại gần nhau hơn... Sự ổn định kinh tế như vậy chắc chắn sẽ khôi phục được niềm tin cho các nhà đầu tư truyền thống và thu hút thêm các nhà đầu tư mới.
+ Trong khi cả thế giới phải đối mặt và chịu nhiều hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu, thi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn đạt được mức khá cao, thuộc hàng “top” đầu khu vực với sự mở rộng các mặt hàngxuất khẩu rất ấn tượng. Trong khi thế giới phải vật lộn với khủng hoảng lương thực thỡ sản lượng lương thực Việt Nam vẫn tăng lên (năm 2008, sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước có thể vượt 3 tỉ USD theo dự kiến), và Việt Nam đó trở thành nước xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 2 vào thị trường Mỹ (sauTrung Quốc, vượt Ấn Độ). Điều này phản ánh mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam, và đồng thời cũng là tín hiệu cho sự lựa chọn điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài.
+ “Tờn tuổi” và uy tín của Việt Nam đó in dấu trong con mắt người nước ngoài. Sự thay đổi về chất trong quá trỡnh mở cửa, thu hỳt vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đó thể hiện rừ qua việc xuất hiện ngày càng nhiều dự ỏn FDI quy mụ hàng chục tỉ USD, gia tăng các dự án phỏt triển cụng nghiệp phụ trợ và phỏt triển khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ trỡnh độ cao, chất lượng cao. Thu
hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang có những dấu hiệu rất tốt, đặc biệt kết quả thu hút FDI đạt mức kỷ lục chưa từng có trong lịch sử đất nước. Tổng FDI đăng ký chỉ trong 7 tháng đầu năm 2008 đó gấp hơn 2 lần mức thu hút của cả năm 2007 và bằng hơn 80% tổng vốn FDI đăng ký từ năm 1988 đến 2005.
+ Môi trường đầu tư tại Việt Nam ngày càng thông thoáng, hấp dẫn. Theo xếp hạng của Tổ chức tư vấn AT Kearney và tập san Ngoại giao của Mỹ công bố năm 2007 về chỉ số toàn cầu hóa (Globalisation Index 2007), Việt Nam xếp thứ 48 trong số 72 nước trong danh sách đang được xét đến, vượt cả Thái Lan (thứ
53) và Indonesia (thứ 69). Cụ thể, Việt Nam đứng thứ 10 về lĩnh vực thương mại, thứ 15 về lượng kiều hối, thứ 19 về tốc độ phát triển kinh tế và hội nhập, thứ 33 về đầu tư trực tiếp nước ngoài... Cũng vào năm 2007, trong Báo cáo của Tổ chức Phát triển và Thương mại Liên Hiệp Quốc (UNCTAD) Việt Nam được xếp vào “top” 10 nước được các công ty đa quốc gia vào đầu tư giai đoạn 2007- 2009, chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Nga và Brazil. Cũn Tổ chức Tư vấn và Kiểm toán thế giới Price Water House Coopers thỡ xếp Việt Nam đứng đầu trong số 20 nền kinh tế đang lên và có sức hấp dẫn cao với các nhà đầu tư vào ngành sản xuất, trong đó có công nghiệp phụ trợ. Ngân hàng Thế giới cũng đưa Việt Nam lên nhiều bậc trong báo cáo về môi trường thương mại và kinh doanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 10
- Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 11
- Nguyên Nhân Tạo Ra Mặt Trái Của Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
- Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 14
- Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
+ Ngoài ra, Báo Singapore Business Time đó xếp Việt Nam đứng thứ 2 trong việc thu hút đầu tư của Singapore ra nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài dường như đó bước sang giai đoạn tăng tốc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Đặc biệt, Tổng thống Thụy Sĩ trong chuyến thăm Việt Nam đầu tháng 8/2008 cũn khẳng định: “Việt Nam là một đất nước của tương lai. Việt Nam có tiềm lực phát triển phi thường xứng đáng với quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài”.
+ Thị trường Việt Nam cũn hấp dẫn cỏc nhà đầu tư nước ngoài bởi chi phí nhân công thấp nhưng tay nghề khá cao của họ. Thậm chớ, cú nhà doanh nghiệp cũn khẳng định "tương lai kinh doanh" của họ là ở Việt Nam. Tờ Thời báo Los Angeles (Mỹ) viết, để tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh, Việt Nam đang tiến hành xây dựng đường sá, sân bay và hải cảng. Dân Việt Nam có trỡnh độ học vấn cao và hàng triệu người lao động trẻ đang khát khao cải thiện mức sống gia đỡnh. Trong rất nhiều trường hợp, Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước láng giềng trên phương diện sức hấp dẫn kinh tế. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các công ty nước ngoài làm ăn ở Việt Nam, một thị trường có 84 triệu dân. Ngày càng nhiều công ty công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam, trong đó có hóng Nicon Inc của Nhật Bản, LG của Hàn Quốc, Intel của Mỹ.
+ Thêm vào đó, xu hướng chuyển dịch đầu tư của các công ty xuyên quốc gia từ Trung Quốc sang các nước trong khu vực theo mô hỡnh "Trung Quốc + 1" nhằm phòn tỏn rủi ro và khai thỏc tối đa những lợi thế của cả khu vực về mặt thị trường, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên... Việt Nam được đánh giá là một trong những "ứng cử viên" sáng giá, được nhiều tập đoàn lớn quan tâm do có sự ổn định về chính trị, nguồn nhân lực dồi dào và tương đối có kỹ năng, có nguồn tài nguyên đa dạng và thị trường tiềm năng với hơn 80 triệu dân đang được kết nối với thị trường hơn 500 triệu dân của ASEAN.
+ Tuy thuận lợi là rất lớn, song chúgn ta cũng đang gặp không ít khó khăn trong thu hút FDI, do cuộc cạnh tranh với các nước trong khu vực ngày càng gia tăng. Trong điều kiện đó, nếu chúng ta không biết nắm bắt và khai thác cơ hội, không biết nhận thức và hạn chế khó khưn thỡ chắc chắn dũng vốn FDI vào nước ta sẽ bị suy giảm. Cùng với việc gia tăng sức ép cạnh tranh, một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ dẫn đến ngừng triển khai dự án hoặc rơi vào tỡnh trạng phỏ sản.
Tổng quỏt lại, xu hướng gia tăng dũng vốn đầu tư nước ngoài dự báo sẽ tiếp tục được duy trỡ trong cỏc năm tới. Trong những năm tới, vốn cấp mới sẽ có thể đạt trên trăm tỉ USD. Cơ cấu đầu tư phân theo đối tác sẽ có sự chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, nhất là từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. Đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp sẽ tập trung chủ yếu trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế. Một số dự án quy mô lớn đang đàm phán sẽ được thực thi.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU HẠN CHẾ MẶT TRÁI CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
Để tranh thủ cơ hội thuận lợi nhằm tạo một làn sóng đầu tư mới, đũi hỏi phải có những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư. Các giải pháp cụ thể là:
3.2.1. Cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đất nước
Cơ cấu FDI phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xó hội của VN cũng như chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, các vùng quan trọng. Vì vậy, cần cơ cấu lại các dự án đầu tư nước ngoài phù hợp hơn không chỉ để kêu gọi, mà cũn để giám sát việc thu hút FDI cho đúng trọng tâm, đúng yêu cầu dài hạn của nước nhà.
Hiện tại, cơ cấu đầu tư của các dự án cũn bất hợp lý. Cỏc lĩnh vực bất động sản, sân golf, nhà máy thép… được chú ý nhiều, cũn những lĩnh vực như nông nghiệp, kết cấu hạ tầng không được quan tâm. Thậm chí, ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm cũng ít được đầu tư.
Đặc biệt, nhiều dự án lớn đều đổ vào bất động sản. Trong khi hiệu quả các dự án đầu tư chưa gắn liền với phát triển cơ sở hạ tầng của các ngành mũi nhọn mà nước ta đang hướng đến như: công nghệ cao, công nghệ thông tin, lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, các ngành kinh tế có giá trị gia tăng cao.
Đối với công nghiệp, khi có những dự án FDI đũi hỏi quỏ lớn về nguồn cung cấp năng lượng, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, nguồn nhân lực giá rẻ….thì cần phải được tớnh toỏn kỹ.Vỡ hiện tại, Việt Nam có khả năng đáp ứng, nhưng chắc chắn trong tương lai sẽ phải trả giá cao cho những yêu cầu này. Hiện nay, không ít doanh nghiệp FDI đang hưởng trợ cấp của nhà nước ta cho các chi phí năng lượng và hạ tầng. Một số nhà đầu tư mới hoặc chuẩn bị vào cũng có thể kỳ vọng như vậy, nhất là trong bối cảnh thế giới thiếu hụt nguồn cung năng lượng, tài nguyên và giá cả các thứ đó có giá cả leo thang như ngày nay và cả trong tương lai.
Những dự án chỉ muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên, không có cam kết hoặc năng lực không chắc chắn về khả năng chế biến thỡ càng phải trỏnh, nếu khụng thỡ chớnh sự giàu cú của hiện tại sẽ phải đỏnh đổi bằng việc trả giỏ của tương lai.
Riêng đối với nông nghiệp, cần thu hút cho các dự án FDI đầu tư vào việc nuôi trồng, chế biến các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt cần ưu kêu gọi FDI cho các tỉnh vùng khó khăn về việc làm nhưng lại có lợi thế tự nhiên.
Trong phỏt triển, nội lực vẫn là quyết định nhất, không nên ưu tiên FDI thái quá. Rất cần sự phát triển hài hũa, gắn kết và bổ sung lẫn nhau giữa FDI và đầu tư trong nước, nhất là với khu vực tư nhân (khu vực tạo 90% việc làm) ở nước ta.
Đặc biệt, cần tránh những dự án bị thổi phồng về con số vốn đầu tư, về viễn cảnh lợi nhuận cho cả nước chủ nhà và nhà đầu tư. VN đó gặp khụng ớt trường hợp này. Thực tế tới năm 2007 cũn khoảng 70% doanh nghiệp FDI ở TP.HCM bỏo cỏo lỗ là một minh chứng. Dự họ lỗ thật hay lỗ giả cũng đều đáng lo, đáng suy nghĩ. Ngay trước mắt, chúng ta rất cần xem xét cẩn trọng các nguồn lực “đối
ứng” ở trong nước để tiếp nhận các dự án FDI đang tăng lên nhanh chóng , nhất là với một số dự án qui mô hàng tỉ USD đang vào nhiều như hiện nay. Dù họ cam kết đầu tư 100% vốn của họ, song là chủ nhà, ta không thể chỉ đứng nhỡn, để họ tự lo.
3.2.2. Không nờn cấp phép cho các dự án có công nghệ lạc hậu hoặc gây ô nhiễm môi trường
Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các doanh nghiệp FDI đối với quy trình xử lý chất thải; yêu cầu các doanh nghiệp FDI trước khi thành lập phải nêu các phương án, biện pháp khắc phục chất thải ra môi trường bên ngoài và phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền đối với việc nhập khẩu các thiết bị, dây chuyền công nghệ nhằm tránh việc phải nhập khẩu các thiết bị, dây chuyền công nghệ lạc hậu, để tránh trở thành “bãi thải công nghiệp” gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống và sản xuất.
Nờn biết từ chối cấp phép cho những dự án gây ô nhiễm môi trường: Sân golf, nhà máy đóng tàu, nhà máy giấy, xi măng, thép... sử dụng công nghệ lạc hậu; chính tỡnh trạng quản lý lỏng lẻo ở VN đã bị các nhà đầu tư lợi dụng để phớt lờ yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, cũng cần tránh những dự án có thể không phù hợp qui hoạch phát triển lâu dài của VN, tạo dư thừa công suất lớn mà khó có triển vọng khai thác, sử dụng hiệu quả: sân golf, các khu công nghiệp, khu resort, khu du lịch cao cấp, khu đô thị lớn ở một số tỉnh dân số không đông, kinh tế chưa phát triển cao, cảng biển, nhà máy lọc dầu, nhà máy thép, xi măng....Đứng trước nguy cơ sông Đồng Nai bị “bức tử” nên mới đây, Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định thành lập “Uỷ ban bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai” để chỉ đạo, điều phối liên ngành, liên vùng và huy động các nguồn lực quốc tế và trong nước
thống nhất thực hiện “đề án bảo vệ môi trường lưu vực sông Đồng Nai”; nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững lưu vực con sông này.
Cần biết từ chối những dự ỏn sử dụng cụng nghệ, thiết bị đó hết thời gian khấu hao. Do năng lực đánh giá, thẩm định các dự án FDI hạn chế nên hiện nước ta đang tiếp nhận không ít dự án loại này từ một số nước cần nâng cấp công nghệ, thiết bị của chính họ. Cái giá phải trả không những chỉ là chi phí ban đầu để trở thành “bói rỏc cụng nghệ”, mà cũn khụng biết bao nhiờu hao tổn sau này về năng lượng, vật tư, môi trường... để nuôi dưỡng nó, để nó sản xuất ra những sản phẩm khó cạnh tranh nổi trên thị trường và kỡm hóm ta trong vũng lạc hậu.
Chính qua thực tiễn giải quyết các vụ vi phạm nghiêm trọng về bảo vệ môi trường đối với các DN FDI cho thấy còn có nhiều bất cập trong việc xử lý. Những hạn chế này xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ về quyền năng, trách nhiệm của các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước về môi trường và việc thực hiện quyền năng của chính quyền các cấp. Cụ thể là nhận thức về trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường cũng như tác hại của những hành vi vi phạm về môi trường (thể hiện trong việc cấp giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường cho các dự án, DN FDI) còn quan liêu, phiến diện, không đầy đủ nên sự phối hợp giữa các cơ quan công quyền còn rời rạc, không thống nhất. Chính vì vậy mà trong thời gian qua, có rất nhiều vi phạm về môi trường ở khu vực FDI gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nhưng không xử lý hình sự được, mà chỉ dừng ở phạt hành chính nên không đủ sức răn đe.
Trong thời gian tới, cần nhanh chóng đưa ra các chế tài xử phạt thật nghiêm khắc đối với nhà đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; tăng cường và khuyến khích sử dụng các dự án FDI đối với hoạt động bảo vệ môi trường như trồng rừng, xử lý chất thải công nghiệp, rác thải y tế .
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý đầy đủ và thống nhất quản lý Nhà nước về môi trường, nghiên cứu về cách xử lý vi phạm
bảo vệ môi trường sát với tình hình thực tế, nếu DN gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường thì không nhất thiết phải xử lý hành chính trước rồi mới xử lý hình sự mà có thể làm cả hai việc một cách song song.
Nhà nước cũng cần tăng cường công tác quản lý về môi trường, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp trong quản lý Nhà nước về môi trường; thực hiện thẩm quyền của mình về môi trường một cách nghiêm minh. Đồng thời, trong quá trình xử lý các vụ việc vi phạm môi trường cũng cần xem xét trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc để xảy ra các vụ việc vi phạm mà không kịp thời phát hiện, xử lý theo chức năng quy định.
Cuối cùng, cần trang bị kiến thức về tội phạm môi trường cho cán bộ thực thi pháp luật, nhất là kinh nghiệm của các nước trên thế giới; trang bị phương tiện, kỹ thuật cần thiết để cảnh sát môi trường có điều kiện làm việc tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phân định rò trách nhiệm của cảnh sát môi trường và và các cơ quan có thẩm quyền quản lý Nhà nước về môi trường.
3.2.3. Xây dựng các quy định về quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Để nâng cao chất lượng hiệu quả trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cần nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện các quy chế quy định quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trước mắt, cần tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ về pháp luật, chính sách chuyên môn đối với cán bộ làm công tác hợp tác đầu tư nước ngoài, hướng tới đáp ứng yêu cầu hội nhập và giao lưu quốc tế.
Kiên quyết xử lý cán bộ công chức ở bất cứ cương vị nào có thái độ và hành động sách nhiễu, gây khó khăn cản trở cho nhà đầu tư; kịp thời có chế độ phụ cấp khen thưởng cho những người có nhiều thành tích trong công tác đầu tư