- Các DNKT cần đặc biệt lưu ý việc ghi chép đầy đủ các bước công việc đã thực hiện và kết quả công việc thực hiện các thử nghiệm kiểm soát vào các giấy tờ làm việc để làm bằng chứng kiểm toán cũng như để các cấp soát xét có thể KSCL công việc.
Hoàn thiện các thủ tục phân tích cơ bản
Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và ngoài Big Four
Các DNKT có thể vận dụng các thủ tục phân tích cơ bản một cách độc lập hoặc kết hợp với các thủ tục kiểm tra chi tiết như là các thử nghiệm cơ bản để xử lý các rủi ro đã đánh giá ở cấp độ CSDL đối với các số dư tài khoản, loại giao dịch hoặc thuyết minh trọng yếu.
Tương tự như giải pháp về hoàn thiện các thủ tục phân tích sơ bộ mà tác giả đã trình bày ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, khi thực hiện các thủ tục phân tích cơ bản, các DNKT nên bổ sung thêm việc so sánh số liệu thực tế của ngân hàng với các số liệu do KTV ước tính, với các số liệu kế hoạch hoặc dự toán và với số liệu bình quân của ngành, của các ngân hàng khác có cùng quy mô nếu có. Ngoài ra, KTV cũng có thể áp dụng thêm những kỹ thuật phân tích tỷ suất đối với những chỉ tiêu đang phân tích để nhằm phát hiện và xử lý đối với những rủi ro đã đánh giá.
Lưu ý đối với các DNKT ngoài Big Four
Ngoài các giải pháp hoàn thiện chung tại bước này, để tăng hơn nữa hiệu quả của các thủ tục phân tích cơ bản, các DNKT ngoài Big Four nên tận dụng các ứng dụng về vẽ sơ đồ, biểu đồ trong exel để biểu thị các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu có mối quan hệ tương quan để dễ dàng phát hiện ra những biến động không bình thường của các chỉ tiêu này nhằm phát hiện ra các sai sót ví dụ biểu thị mối tương quan giữa số dư cho vay và thu nhập lãi; giữa số dư tiền gửi của khách hàng và chi phí lãi; giữa chi phí tiền lương và số lượng nhân viên; giữa chi phí thuê văn phòng và số lượng chi nhánh và phòng giao dịch…
3.3.3.3. Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán
Các công việc thực hiện sau hợp đồng kiểm toán
Có thể bạn quan tâm!
- Xác Định Các Yếu Tố Quyết Định Việc Chấp Nhận/duy Trì Khách Hàng
- Một Số Kết Quả Chính Của Cuộc Điều Tra Xu Hướng Kinh Doanh Của Các Tctd
- Bảng Xác Định Mức Trọng Yếu, Mức Trọng Yếu Thực Hiện Và Ngưỡng Sai Sót Có Thể Bỏ Qua Chung Của Bctc
- Các Công Trình Khoa Học Đã Công Bố Trên Các Tạp Chí Khoa Học Chuyên Ngành
- Peter S.rose (2001), Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại, Nxb Tài Chính, Hà Nội)
- Hoàn thiện kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng thương mại tại các doanh nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam - 28
Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.
Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và DNKT ngoài Big Four:
Các DNKT cần hoàn thiện hoàn thiện việc lập và lưu trữ các tài liệu, giấy tờ làm việc và hồ sơ kiểm toán nhằm đảm bảo ghi chép đầy đủ và thích hợp làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán trên báo cáo kiểm toán và làm bằng chứng cho thấy cuộc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện phù hợp với quy định của chuẩn mực kiểm toán, pháp luật và các quy định có liên quan. Để giúp việc hoàn thiện hồ sơ, tài liệu, giấy tờ làm việc hiệu quả, các DNKT cần thực hiện các công việc sau:
Lập tài liệu kiểm toán đầy đủ, thích hợp một cách kịp thời, ngay khi có thể trong quá trình kiểm toán để nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán, tạo điều kiện thuận lợi và hiệu quả cho việc soát xét, đánh giá các bằng chứng kiểm toán đã thu thập và
đưa ra kết luận trước khi hoàn thành và lập báo cáo kiểm toán. Do các tài liệu được lập sau khi thực hiện công việc kiểm toán thường kém chính xác hơn các tài liệu được lập ngay khi công việc đó được thực hiện.
Ghi chép các thủ tục kiểm toán đã thực hiện và các bằng chứng kiểm toán đã thu thập.
KTV phải lập đầy đủ tài liệu kiểm toán để KTV có kinh nghiệm không tham gia cuộc kiểm toán dựa vào đó có thể hiểu được. Trên các giấy tờ làm việc, tài liệu kiểm toán cần ghi lại đầy đủ, rõ ràng nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán đã thực hiện; nội dung của những cuộc thảo luận về các vấn đề quan trọng với BGĐ, Ban quản trị NHTM và những người khác; cách giải quyết các vấn đề không nhất quán (nếu có) khi phát hiện các thông tin không nhất quán với kết luận cuối cùng của KTV về một vấn đề quan trọng. Nếu có các vấn đề phát sinh sau ngày lập báo cáo kiểm toán, trong trường hợp đặc biệt mà KTV có thực hiện các thủ tục kiểm toán mới hoặc các thủ tục kiểm toán bổ sung hoặc rút ra kết luận mới sau ngày lập báo cáo kiểm toán thì KTV phải ghi lại.
Hoàn thiện hồ sơ kiểm toán
Kiểm toán viên phải phân loại, sắp xếp tài liệu kiểm toán vào hồ sơ kiểm toán theo trật tự nhất định của quy trình kiểm toán DNKT và thực hiện các thủ tục hành chính về hoàn thiện hồ sơ kiểm toán kịp thời sau ngày lập báo cáo kiểm toán. Theo quy định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành, thời hạn phù hợp để hoàn thiện hồ sơ kiểm toán chính thức không được quá 60 ngày kể từ ngày lập báo cáo kiểm toán.
Sau khi hoàn thành việc hoàn thiện hồ sơ kiểm toán, kiểm toán viên không được xóa hay hủy bỏ bất cứ tài liệu kiểm toán nào trước khi hết thời hạn lưu trữ. Trường hợp KTV xét thấy cần phải sửa đổi tài liệu kiểm toán đã lưu trữ hoặc bổ sung tài liệu kiểm toán sau khi đã hoàn thiện hồ sơ kiểm toán do bất cứ nguyên nhân nào, KTV phải ghi chép và lưu lại trong hồ sơ kiểm toán về lý do cụ thể của việc sửa đổi hoặc bổ sung tài liệu kiểm toán và người lập, người soát xét và thời điểm thực hiện.
3.3.4. Hoàn thiện kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Ý nghĩa của giải pháp: Công tác soát xét chất lượng kiểm toán tưởng chừng như đơn giản nhưng thực tế thực hiện lại khá khó khăn và chưa thực sự đảm bảo sàng lọc được tất cả các sản phẩm kém chất lượng, ngay cả tại các Hãng kiểm toán lớn trên thế giới. Cơ quan quản lý kiểm toán độc lập (IFIAR) và Cơ quan Luật lệ an toàn thuộc Ngân hàng Trung ương Anh đã chỉ trích 6 công ty dịch vụ kiểm toán hàng đầu thế giới, gồm PwC, Deloitte, KPMG, EY, Grant Thornton và BDO sau khi các công ty này tiến hành nhiều cuộc kiểm toán kém chất lượng gây ảnh hưởng đến lợi ích của các cơ quan công. Đặc biệt gần một nửa (47%) các cuộc kiểm toán đã để xảy ra tình trạng thiếu sót nghiêm trọng. Sau khi thanh tra 948 cơ quan công, các nhà quản lý chất lượng
kiểm toán thuộc IFIAR trên toàn cầu đã công bố kết quả và cho biết, công tác kiểm toán hệ thống các tổ chức tài chính lớn, bao gồm các ngân hàng và công ty bảo hiểm toàn cầu chiếm tỷ lệ thiếu sót cao nhất (Theo Accountancylive) [51]. Vì vậy, công tác KSCL hoạt động kiểm toán hiện nay cần được quan tâm và hoàn thiện hơn nữa.
Đối với cả hai nhóm DNKT Big Four và ngoài Big Four
Với thực trạng và các hạn chế về công tác KSCL hoạt động kiểm toán như đã nêu ở chương 2, các DNKT cần hoàn thiện các vấn đề sau:
Thứ nhất, Nâng cao ý thức về tầm quan trọng của công tác soát xét chất lượng kiểm toán đối với mọi thành viên trong Công ty từ Thành viên BGĐ phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán; chủ nhiệm kiểm toán; trưởng nhóm kiểm toán; KTV và trợ lý kiểm toán để từng thành viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình cũng như phối hợp nhịp nhàng với nhau để hoàn thành công tác KSCL chung của toàn bộ cuộc kiểm toán.
Thứ hai, Tăng cường hơn nữa việc thực hiện các thủ tục KSCL ngay ở cấp độ từng cuộc kiểm toán nhằm đảm bảo rằng cuộc kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật và các quy định có liên quan cũng như đảm bảo báo cáo kiểm toán được phát hành phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán. Việc KSCL của từng cuộc kiểm toán phải thực hiện đầy đủ các nội dung sau:
Xác định rõ trách nhiệm của thành viên BGĐ phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán là người chịu trách nhiệm về chất lượng chung đối với cuộc kiểm toán mà mình được giao phụ trách nhằm đảm bảo cuộc kiểm toán tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp, pháp luật và các quy định có liên quan và báo cáo kiểm toán phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cuộc kiểm toán. Để đạt được mục tiêu này, thành viên BGĐ phải chịu trách nhiệm về các vấn đề cụ thể sau:
- Đưa ra kết luận về sự tuân thủ các quy định về tính độc lập của các thành viên trong nhóm kiểm toán được áp dụng trong cuộc kiểm toán;
- Đảm bảo đã áp dụng các thủ tục phù hợp về chấp nhận, duy trì quan hệ khách hàng và hợp đồng kiểm toán, và phải chứng minh các kết luận đưa ra về vấn đề này là phù hợp;
- Đảm bảo cho nhóm kiểm toán và các chuyên gia không thuộc nhóm kiểm toán có năng lực chuyên môn và khả năng phù hợp để thực hiện cuộc kiểm toán;
- Hướng dẫn, giám sát và thực hiện cuộc kiểm toán;
- Đảm bảo tại ngày hoặc trước ngày lập báo cáo kiểm toán, việc soát xét tài liệu, hồ sơ kiểm toán và thảo luận với nhóm kiểm toán được thực hiện phù hợp với các chính sách và thủ tục soát xét của DNKT để đảm bảo đã thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để xác nhận các kết luận kiểm toán và cho mục đích phát hành báo cáo kiểm toán;
- Đảm bảo nhóm kiểm toán đã thực hiện tham khảo ý kiến tư vấn thích hợp về các vấn đề phức tạp hoặc dễ gây tranh cãi.
Các cuộc kiểm toán BCTC NHTM đều được coi là các cuộc kiểm toán có tính chất phức tạp, mức độ rủi ro cao do đó cần thực hiện quy định như đối với hoạt động kiểm toán BCTC của các tổ chức niêm yết. Đó là thực hiện soát xét việc KSCL của cuộc kiểm toán.
Khi thực hiện việc soát xét chất lượng cuộc kiểm toán, thành viên BGĐ phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán phải đảm bảo:
- Người soát xét việc KSCL của cuộc kiểm toán phải được bổ nhiệm;
- Thảo luận với người soát xét việc KSCL của cuộc kiểm toán về các vấn đề trọng yếu phát sinh trong suốt cuộc kiểm toán, bao gồm cả những vấn đề được phát hiện trong quá trình soát xét việc KSCL của cuộc kiểm toán;
- Không đề ngày lập báo cáo kiểm toán trước khi hoàn thành công việc soát xét KSCL của cuộc kiểm toán.
Người soát xét việc KSCL của cuộc kiểm toán phải thực hiện đánh giá khách quan về các xét đoán quan trọng và các kết luận của nhóm kiểm toán để có thể hình thành báo cáo kiểm toán dựa trên các cơ sở như thảo luận với thành viên BGĐ phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán về các vấn đề trọng yếu; soát xét BCTC và dự thảo báo cáo kiểm toán; Soát xét tài liệu, hồ sơ kiểm toán liên quan đến các xét đoán quan trọng...
Khi soát xét, người soát xét việc KSCL của cuộc kiểm toán phải xem xét các yếu tố sau: Đánh giá về tính độc lập của nhóm kiểm toán và DNKT liên quan đến cuộc kiểm toán; Liệu nhóm kiểm toán đã tham khảo ý kiến tư vấn cần thiết về các vấn đề còn khác biệt về quan điểm, các vấn đề phức tạp hoặc dễ gây tranh cãi và các kết luận thu được từ việc tham khảo ý kiến tư vấn hay chưa; Các tài liệu, hồ sơ kiểm toán mà người soát xét lựa chọn để soát xét có phản ánh các công việc đã thực hiện liên quan đến các xét đoán quan trọng và có hỗ trợ cho các kết luận của nhóm kiểm toán đưa ra hay không.
Thứ ba, Tăng cường công tác xây dựng hình ảnh, thương hiệu và văn hóa DN tại các DNKT Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại cả cơ hội và thách thức cho các DNKT của Việt Nam. Quá trình hội nhập sẽ làm tăng thêm cả số lượng các DNKT (chủ thể kiểm toán) và cả số lượng các ngân hàng thương mại (khách thể kiểm toán). Tuy nhiên, yêu cầu về chất lượng dịch vụ hiện nay ngày càng khắt khe để đảm bảo các tiêu chuẩn của quốc tế và đạt được sự thừa nhận lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, sự cạnh tranh sẽ càng trở nên khốc liệt hơn. Trong điều kiện đó, các DNKT Việt Nam đặc biệt là các DNKT ngoài Big Four phải không ngừng nỗ lực để tăng cường uy tín, danh tiếng, chất lượng để giữ được các khách hàng cũ và thu hút được ngày càng nhiều khách hàng mới. Một trong các biện pháp để thực hiện điều này là các DNKT Việt Nam phải không ngừng công tác xây dựng một thương hiệu mạnh của DN mình, xây dựng được niềm tin từ khách hàng. Thương hiệu và niềm tin của khách hàng được xây dựng từ nền tảng văn hóa của chính các DNKT, chủ yếu là
văn hóa Trung thực – Uy tín – Minh bạch. Văn hóa này cần được hun đúc qua tất cả các thế hệ và cần được kế thừa, phát huy trong mỗi suy nghĩ và hành động của tất cả các thành viên trong DN. Các DNKT phải xây dựng một nền tảng văn hóa DN với bản sắc văn hóa riêng của mình để thương hiệu của mình được định vị trên thị trường thông qua các giá trị đạo đức, trách nhiệm của mỗi thành viên trong DN, các chuẩn mực hành vi ứng xử của các thành viên...
Thực hiện được các giải pháp trên sẽ là cơ sở để nâng cao chất lượng công tác KSCL hoạt động kiểm toán. Đây chính là một trong các tiền đề để nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán BCTC NHTM từ đó tăng cường uy tín để đạt được sự tin tưởng và tín nhiệm của khách hàng hơn nữa. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế rất khó khăn như hiện nay, khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, các ngân hàng đang trong tình trạng tái cơ cấu, mua, bán, sáp nhập rất nhiều thì việc giữ các khách hàng truyền thống và thu hút thêm các khách hàng mới là điều vô cùng quan trọng. Thực tế hiện nay số lượng các DNKT đủ điều kiện kiểm toán cho NHTM rất ít nên các DNKT (đặc biệt các DNKT ngoài Big Four) càng phải cố gắng để tránh mất thị phần đã đạt được và mở rộng thêm thị phần đối với loại khách hàng này. Có khách hàng là các NHTM cũng là một trong các nhân tố tăng uy tín và danh tiếng cũng như doanh thu cho các DNKT, góp phần tạo ra các thương hiệu mạnh cho các DNKT, lấy đà để các DNKT đứng vững tại thị trường Việt Nam và vươn xa ra khu vực và quốc tế trong điều kiện hội nhập ngày nay.
3.4. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HOÀN THIỆN KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM
Để có thể thực hiện được tốt nhất các giải pháp hoàn thiện kiểm toán BCTC NHTM mà tác giả đã nêu ở trên, các DNKT cần được đảm bảo cũng như thực hiện một số điều kiện nhất định sau đây:
3.4.1 Về phía cơ quan quản lý nhà nước
Thứ nhất, Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan kiểm toán độc lập báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại
Hoạt động kiểm toán được xây dựng và thực hiện phải dựa trên các văn bản luật, quy định, chuẩn mực, chế độ và các quy định pháp lý đầy đủ và phù hợp. Hệ thống pháp lý về kiểm toán có đầy đủ, phù hợp với thông lệ kiểm toán quốc tế cũng như đặc điểm của hoạt động kiểm toán ở Việt nam sẽ đảm bảo cho công tác kiểm toán được xây dựng và thực hiện tốt, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm toán.
Năm 1991, đánh dấu sự ra đời hoạt động kiểm toán và kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Tính đến nay sau hơn 20 năm, Việt Nam đã ban hành được khá nhiều các văn bản pháp luật nhưng phải khẳng định hệ thống khuôn khổ pháp lý này vẫn đang trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện. Thành tựu lớn nhất trong hơn 20 năm vừa qua là năm 2011 Việt Nam đã ban hành được Luật kiểm toán độc lập, có hiệu lực từ 01/01/2012. Năm 2012, Bộ Tài chính đã ban hành 37 CMKit mới, có hiệu lực từ 01/01/2014 thay thế cho hệ thống các chuẩn mực cũ đã ban hành trước đây (trừ 04 chuẩn mực là CMKit Việt Nam số 910, 920, 930 và 1000). Hệ thống CMKit mới này được đánh giá là phù hợp với hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế, hướng đến mục tiêu được quốc tế thừa nhận.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy rằng với xu thế hội nhập toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kiểm toán. Chiến lược kế toán
– kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cũng đã chỉ rõ vai trò của công cụ kế toán – kiểm toán trong quản lý kinh tế. Trong bối cảnh đó, chúng ta cũng nhận thấy những điểm còn hạn chế trong hệ thống khuôn khổ pháp lý liên quan đến kiểm toán độc lập. Theo chiến lược kế toán – kiểm toán, Chính phủ cũng đã xác định phải hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý đối với lĩnh vực kiểm toán độc lập: trong giai đoạn 2013 - 2015, nghiên cứu cập nhật bổ sung các CMKit còn lại (giai đoạn 2013 – 2015); tiếp tục cập nhật CMKit quốc tế, đảm bảo tuân thủ CMKit quốc tế (giai đoạn 2016 – 2020).
Riêng đối với kiểm toán độc lập BCTC của NHTM, Bộ Tài chính (hoặc Hiệp hội nghề nghiệp Kế toán – kiểm toán) có thể nghiên cứu xây dựng và ban hành thông tư riêng hướng dẫn về kiểm toán BCTC của ngân hàng, có thể tham khảo theo IAP 1006 của Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC đã ban hành năm 2001 “Thực hành kiểm toán BCTC quốc tế IAP 1006 – Kiểm toán BCTC của ngân hàng” (International auditing practise statement 1006, Audits of the financial statements of banks). Như vậy, trên phạm vi quốc tế, Liên đoàn kế toán quốc tế đã ban hành một tài liệu riêng để hướng dẫn kiểm toán BCTC của NHTM, mặc dù tài liệu này của IFAC được ban hành dựa trên hệ thống CMKit quốc tế ban hành năm 2001, nhưng cũng có thể nói lên tầm quan trọng và sự cần thiết phải có một tài liệu riêng hướng dẫn đối với kiểm toán BCTC một lĩnh vực đặc thù và chứa đựng nhiều rủi ro, đó là ngân hàng.
Bộ Tài chính cần sớm xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán cho phù hợp với thông lệ quốc tế, hướng đến mục tiêu được quốc tế thừa nhận về dịch vụ kiểm toán Việt Nam. Tránh việc kết quả kiểm toán phụ thuộc vào tính chủ quan của các KTV và DNKT, ảnh hưởng đến uy tín ngành nghề kiểm toán.
Chính phủ, Bộ Tài chính cần tiếp tục ban hành văn bản pháp luật để chuyển giao trực tiếp và mạnh hơn nữa công việc quản lý hành nghề kiểm toán từ cơ quan Nhà nước sang cho các tổ chức nghề nghiệp. Hội KTV hành nghề Việt Nam (VACPA) cần duy trì và phát triển mạnh mẽ hơn, phải thực sự là tổ chức độc lập mang tính nghề nghiệp cao nhằm tăng cường chất lượng dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ đảm bảo, phải có uy tín và danh tiếng để thu hút hội viên đẳng cấp nghề nghiệp cao hướng đến mục tiêu ngang tầm khu vực và quốc tế.
Bộ Tài chính cần tăng cường, hỗ trợ để nâng cao vị thế, vai trò của Hội KTV hành nghề Việt nam đối với công tác quản lý hoạt động kiểm toán bằng cách chuyển giao dần các chức năng quản lý hoạt động kiểm toán.
Thứ hai, Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong hoạt động của các NHTM
Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc biệt, có sự ảnh hưởng sâu rộng đối với mọi mặt của đời sống xã hội và cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều loại rủi ro. Do đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng, các cơ quan nhà nước có liên quan (đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính…) cần ban hành đầy đủ và thích hợp các quy định có liên quan đến hoạt động của NHTM nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung. Hơn nữa, các quy định trên phải đảm bảo tuân thủ các quy chế về giám sát an toàn hoạt động của ngân hàng của Ủy ban Basel để đảm bảo hệ thống NHTM Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả, phát triển bền vững, được quốc tế thừa nhận và sẵn sàng cạnh tranh được trong xu thế hội nhập.
Thực tế, hiện tại Việt Nam đang thực hiện đề án tái cơ cấu ngành ngân hàng theo Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, tính đến nay thì các kết quả của quá trình này khá hạn chế và thiếu tính dài hạn. Nguyên nhân chủ yếu là do còn thiếu một cách tiếp cận tổng hợp để xử lý tổng thể các vấn đề của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là còn thiếu một khuôn khổ pháp lý mang tính hệ thống để tái cơ cấu ngân hàng thương mại trong bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế. (Giáo sư Trần Thọ Đạt - Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý - Ưu tiên hàng đầu cho tái cơ cấu hệ thống ngân hàng). Vì vậy, trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản để hoàn thiện thể chế và khuôn khổ pháp lý cho hệ thống ngân hàng. Các khuôn khổ pháp lý này phải đảm bảo một số khía cạnh như:
- Khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại, như xây dựng quy trình đánh giá thực trạng của từng DN đối với từng khoản vay, từng dự án đầu tư trước khi xác định nhóm nợ của DN trên CIC (cảnh báo tín dụng); phát triển đồng bộ cả hai mô hình xử lý nợ xấu là phi tập trung và tập trung để giúp kết quả quá trình xử lý nợ xấu được duy trì và phát huy ngay cả khi đề án tái cơ cấu đã kết thúc; hướng dẫn cụ thể về việc xử lý các khoản nợ xấu đối với NHTM; xây dựng thị trường mua bán nợ thật sự gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp để huy động đa dạng các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia xử lý nợ xấu; tạo hành lang pháp lý cho việc chứng khoán hóa các khoản nợ xấu;
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phối hợp với các bộ, ban, ngành liên quan sớm xây dựng các văn bản pháp quy và các tổ chức trong điều hành các thị trường phái sinh (cụ thể là thị trường hoán đổi tín dụng) cũng như các thị trường liên quan đến chứng khoán hóa (thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và thị trường
bảo hiểm). Theo đó, các văn bản pháp lý và các tổ chức được xây dựng theo hướng hạn chế tối đa sự nguy hiểm bắt nguồn từ tính liên thông giữa các thị trường trên khi kinh tế vĩ mô trở nên bất ổn.
- Khuôn khổ pháp lý về mua bán, sáp nhập, hợp nhất các TCTD cụ thể như: thống nhất khái niệm mua lại tổ chức tín dụng, nghiên cứu và xây dựng quy định định giá tài sản khi thực hiện mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, các văn bản này cần phản ánh được đầy đủ giá trị hữu hình và vô hình của tổ chức tín dụng…
- Khuôn khổ pháp lý về sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng
- Khuôn khổ pháp lý về quản trị rủi ro và bảo đảm an toàn hoạt động của các ngân hàng thương mại;
- Khuôn khổ pháp lý cho sự can thiệp của Nhà nước trong xử lý các TCTD yếu kém
- …
Ngân hàng nhà nước và cơ quan có liên quan cần thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, cập nhật để bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới các thông tư, quy định hướng dẫn về kế toán tại NHTM cho những loại hoạt động mới phát sinh hoặc theo sự cập nhật mới của chuẩn mực, nguyên tắc kế toán của quốc tế.
Ngân hàng nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát hơn nữa thông qua rà soát, hoàn thiện các văn bản liên quan đến nội dung, quy trình quản lý, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngân hàng rõ ràng, minh bạch và nhất quán để kịp thời đối phó với các hiện tượng sai phạm, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng sẽ là các yếu tố vô cùng quan trọng góp phần tăng cường chất lượng kiểm toán BCTC NHTM. Vì vậy việc khẩn trương nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý liên quan đến hoạt động của NHTM sẽ giúp cho các DNKT và KTV có đầy đủ cơ sở mang tính pháp lý để đưa ra ý kiến khi kiểm toán BCTC của loại hình DN này.
3.4.2. Về phía hiệp hội quản lý nghề nghiệp
Hiệp hội KTV hành nghề Việt nam (VACPA) cần nâng cao vai trò của mình đối với công tác quản lý hoạt động kiểm toán. VACPA cần quản lý và kiểm soát chặt chẽ danh sách KTV cũng như DNKT có đủ điều kiện kiểm toán các tổ chức tín dụng; thực hiện kiểm tra việc tuân thủ pháp luật về kế toán, kiểm toán và các CMKit; kiểm soát việc thực hiện và tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của KTV. VACPA phải trở thành hạt nhân liên kết, hợp tác giữa các DNKT với nhau tạo nên sức mạnh của ngành kiểm toán độc lập Việt nam.
VACPA cần tăng cường kiểm tra và giám sát chất lượng thực hiện dịch vụ của các DNKT. Đồng thời, kết hợp với các cơ quan liên quan xây dựng và ban hành cơ chế xử lý