Tình Trạng Thông Tin Không Cân Xứng Trong Hoạt Động Tín Dụng Ngân Hàng Trên Địa Bàn

128


trở lên vì khó huy động và vì sợ rủi ro lãi suất. Hiện nay trên địa bàn tỉnh chỉ có các NHTM nhà nước mạnh như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương phát hành kỳ phiếu và trái phiếu kỳ hạn từ 2 năm đến 5 năm nhưng cũng không thường xuyên.

2.3.3.2. Tình trạng thông tin không cân xứng trong hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn

Thông tin không cân xứng trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa ngân hàng không am hiểu và đánh giá đúng về khách hàng dẫn đến ra quyết định tín dụng không chính xác. Thông thường để đảm bảo an toàn, các ngân hàng đã từ chối cho vay và nó cũng là nguyên nhân các ngân hàng quá khắt khe trong yêu cầu về tài sản thế chấp. Sự không hoàn hảo của thông tin về khách hàng đã làm các ngân hàng:

Khó đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng: Yếu tố cơ bản của tiêu chí này là mối quan hệ dài hạn, uy tín, thương hiệu của khách hàng trên thị trường, năng lực trình độ quản lý, sự am hiểu trong lĩnh vực kinh doanh

…những yếu tố này rất khó đánh giá vì các doanh nghiệp trên địa bàn hầu hết cũng mới đi vào hoạt động, đa phần thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, rất ít doanh nghiệp khẳng định được thương hiệu của mình. Mặt khác, hoạt động tín dụng ngân hàng mới phát triển trong vòng 5 năm gần đây sau khi Chính phủ và Ngân hàng nhà nước đã có những gỡ bỏ các bó buộc về cơ chế lãi suất, quy định đảm bảo tiền vay…các mối quan hệ thoả thuận mới được xác lập, chưa đủ thời gian để tạo sự tin cậy.

Không đánh giá được chính xác năng lực tài chính của khách hàng: Năng lực tài chính của khách hàng được kết luận qua các chỉ tiêu tài chính được tính toán thông qua các báo cáo tình hình tài chính doanh nghiệp như: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản, suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA),


suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE), giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và một số chỉ tiêu khác. Nhưng thật không an tâm khi tính toán các chỉ tiêu tài chính này và mức độ tin cậy của chúng trong khi các báo cáo tài chính không được kiểm toán độc lập, hệ thống thông tin, chuẩn mực kế toán chưa đủ độ tin cậy. đó là chưa kể việc nhiều doanh nghiệp trên địa bàn có đến hai hay ba hệ thống sổ sách kế toán, báo cáo kế toán. Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC của Ngân hàng Nhà nước đã hoạt động hơn mười năm, đã đạt được nhiều kết quả trong việc cung cấp thông tin tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp độc lập. Hơn nữa các thông tin mà CIC cung cấp còn đơn điệu thiếu cập nhật, việc kết nối với Website của CIC còn nhiều trục trặc cũng khiến các ngân hàng trên địa bàn chưa có được thông tin kịp thời cũng như có được sự tư vấn trong việc ra quyết định cho vay. đây chính là vấn đề mà việc đánh giá tình hình tài chính được thực hiện mang ý nghĩa thủ tục mà không có vai trò quan trọng trong các quyết định cấp tín dụng.

Như vậy có thể nói khi không thể nhìn vào những cái vô hình và khó phân tích như giá trị thương hiệu của doanh nghiệp, giá trị vốn chủ sở hữu, giá trị thực các khoản phải thu, các khoản tồn kho…thì các ngân hàng chọn vịêc làm đơn giản nhất là xem xét các tài sản hữu hình mà chủ yếu là tài sản cố định để đảm bảo cho các khoản vay. Việc cấp tín dụng sẽ yên tâm hơn khi khoản cho vay được đảm bảo bằng tài sản. Việc quản lý tài sản cũng dễ dàng hơn khi các tổ chức tín dụng nắm giữ tài sản hoặc những giấy tờ sở hữu chúng được nhà nước xác nhận. đây chính là nguyên nhân giải thích tại sao thời gian qua, các ngân hàng trên địa bàn coi tài sản đảm bảo là yếu tố quan trọng trong quyết định cấp tín dụng của mình. đây cũng lại là trở ngại lớn đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là khối các doanh nghiệp ngoài nhà nước khi năng lực thế chấp hạn chế do không có tài sản đảm bảo hoặc các tài sản chưa có đủ giấy tờ hợp lệ.


Những vấn đề trên dẫn đến kế hoạch trả nợ của khách hàng đã được xây dựng không dựa trên việc đánh giá khả năng thực thi dòng tiền thuần của dự án, phương án sản xuất kinh doanh. điều này làm tăng khả năng rủi ro cho các khoản tín dụng ngân hàng.

2.3.3.3. Quan hệ thanh toán chủ yếu sử dụng tiền mặt, còn chịu ảnh hưởng của thị trường tín dụng không chính thức

Các giao dịch hàng hoá tiền tệ chủ yếu là sử dụng tiền mặt nên lượng tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng lớn, số lượng người dân sử dụng dịch vụ ngân hàng ít.

Trên địa bàn tỉnh hiện nay, hoạt động tín dụng phi chính thức có ảnh hưởng mạnh đến tín dụng ngân hàng. Hình thức điển hình là một số cá nhân đứng ra huy động vốn với lãi suất cao từ 1,5% đến 1,8% tháng sau đó cho vay lại với lãi suất cao có lúc lên đến 3%/tháng. Vào thời điểm đầu năm 2008 có thể tới 4,5%/tháng. Các doanh nghiệp khi không vay được vốn ngân hàng hoặc các nguồn vốn khác do khó khăn về thủ tục vay vốn hoặc khó khăn về tài sản thế chấp đã tìm đến nguồn vốn này trong ngắn hạn. Số vốn vay từ tín dụng phi chính thức có thể lên đến hàng tỷ đồng một món. đây là các giao dịch cá nhân giữa chủ doanh nghiệp và người cho vay. Thực tế này một mặt làm tăng gánh nặng trả lãi cho doanh nghiệp nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến một bộ phận thu nhập không nhỏ dân chúng không được huy động vào các ngân hàng.

2.3.3.4. Những biến động kinh tế vĩ mô và can thiệp của NHNN về chính sách tiền tệ

đối mặt với sức ép của lạm phát gia tăng trong thời gian qua đã ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế của dân cư và hoạt động sản xuất kinh doanh. Một bài toán phức tạp cần phải giải quyết ở tầm chính sách vĩ mô nhằm giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội.


Những giải pháp vĩ mô về tiền tệ được đưa ra thời gian vừa qua cho thấy Ngân hàng Nhà nước đã vượt qua tình trạng lưỡng nan trong việc chọn lựa mục tiêu chống lạm phát hay tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

đầu tiên, việc tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc và yêu cầu các NHTM phải mua một số lượng lớn tín phiếu của NHNN, một biện pháp nhằm hạn chế khối lượng tín dụng cung ứng từ hệ thống NHTM với mục tiêu làm giảm khối tiền tệ nhằm chống lạm phát, đang gây ra một cú sốc lớn cho các ngân hàng vì ngay lập tức bị lâm vào tình trạng cạn kiệt thanh khoản. Trong cả hệ thống ngân hàng hiện chỉ có một vài ngân hàng chưa gặp tình trạng khan hiếm tiền đồng. Các ngân hàng khác, “trong cơn dầu sôi lửa bỏng”, đã có lúc phải vay trên thị trường liên ngân hàng với một lãi suất cao chưa từng có là 30%/năm.

Khó khăn khi cung tiền đồng trở nên khan hiếm, trong những ngày đầu năm 2008, nhiều ngân hàng đã đồng loạt tăng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm VND. Với một ngân hàng, lần tăng thứ ba liên tiếp chỉ trong vòng chưa đầy ba tuần là tần suất điều chỉnh chưa từng có nhiều năm trở lại đây.

Các chi nhánh ngân hàng ở Hưng Yên không nằm ngoài sự ảnh hưởng của điều tiết nói trên, thực hiện các nhiệm vụ của hội sở chính giao cùng với việc giữ thị phần hoạt động trên địa bàn, trong nửa đầu năm 2008 các ngân hàng trên địa bàn đã tăng lãi suất huy động. Từ 11 tháng 6 năm 2008, NHNN tăng lãi suất cơ bản theo Quyết định 1316 và 1371/Qđ- NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm và lãi suất tái cấp vốn lên 15% năm các ngân hàng trên địa bàn đã ấn định mức lãi suất huy động thấp nhất là 17%/năm.

Vào thời điểm tháng 12 năm 2008, NHNN đã có điều chỉnh về lãi suất cơ bản còn 12 % năm, các ngân hàng thương mại đã hạ lãi suất cho vay về bằng thời điểm cuối năm 2007. Tuy nhiên, giá cả đầu vào sản xuất ngày càng đắt đỏ đã khiến cho các dự án, phương án sản xuất kinh doanh ngày càng kém khả thi bởi tỷ suất lợi nhuận giảm. Doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.


2.3.3.5. Vướng mắc về tài sản bảo đảm tiền vay, Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được thiết lập

Một trong những nguyên nhân hạn chế khối lượng tín dụng cung cấp trên địa bàn tỉnh thời gian qua chính là vấn đề tài sản bảo đảm tín dụng.

Thực tế là:

- Phần lớn các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thuộc quy mô vừa và nhỏ, năng lực về tài sản thế chấp thấp.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải là điều kiện bắt buộc để thế chấp, bảo lãnh khi sử dụng quyền sử dụng đất làm tài sản đảm bảo. Theo quy định của luật đất đai thì người sử dụng đất chỉ được thực hiện quyền thế chấp bằng quyền sử dụng đất nếu thoả mãn các điều kiện sau: Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án. Trong khi đó việc chậm trễ trong cấp sổ đỏ chứng nhận quyền sử dụng đất đã khiến nhiều khách hàng khó có thể vay vốn ngân hàng.

- Mức giá để xác định giá trị tài sản đảm bảo tiền vay là quyền sử dụng đất do UBND tỉnh xác định thường thấp hơn thị trường và chậm được điều chỉnh dẫn đến làm giảm giá trị thế chấp và giảm mức cho vay của ngân hàng.

- Việc thế chấp, cầm cố hiện nay gặp nhiều khó khăn về thủ tục công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm.

- Thủ tục xử lý tài sản đảm bảo tiền vay là đất đai nhà cửa còn nhiều vướng mắc.

để tháo gỡ tình thế khó khăn cho và nhằm hỗ trợ cho các DNVVN thuận lợi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, Qđ 193/Qđ-TTg ngày 20/12/2001 Ban hành quy chế thành lập tổ chức và hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Song việc triển khai lại hết sức khó khăn, đến nay mới chỉ có một số tỉnh, thành phố thành lập được Quỹ bảo lãnh tín dụng,


hiện tại Hưng Yên chưa thành lập được Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lý do được kể đến tập trung vào hai vấn đề:

- Khó khăn trong huy động nguồn vốn hoạt động cho quỹ bảo lãnh tín dụng

Theo Qđ 193/2001 Qđ-TTg ngày 20/12/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh, vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành từ nguồn vốn của ngân sách cấp tỉnh, vốn góp của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức đại diện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn tài trợ hợp pháp của các tổ chức và cá nhân, vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Vốn ngân sách của các tỉnh thành có mức thu ngân sách lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thì rất thuận lợi. Nhưng với các tỉnh thành có mức thu ngân sách thấp như Hưng Yên thì lại là cả một vấn đề. Khi đó quy mô vốn của quỹ phụ thuộc vào các nguồn đóng góp khác.

Các ngân hàng thương mại không mặn mà với việc góp vốn vì lý do Quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động không vì lợi nhuận nên việc dùng vốn điều lệ và dự trữ để góp vốn là khó khăn. Cùng với đó các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính thì không quan tâm.

- Việc triển khai hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng khó thực hiện

Mô hình mới gây ra e ngại, ai cũng thấy Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là đúng đắn, nhận được sự đồng tình cao nhưng triển khai lại rất khó khăn. Vấn đề khả năng quản lý điều hành cũng như vấn đề giám sát nội dung hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng được các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp quan tâm. Phía ngân hàng cho rằng bộ máy quản lý Quỹ phải có chuyên môn giỏi, đủ trình độ đánh giá doanh nghiệp, thông hiểu nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, phải có trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp thì ngân hàng mới góp vốn.


2.3.3.6. Công tác quản trị điều hành của các chi nhánh ngân hàng còn nhiều mặt chưa tốt

Cách thức quản lý ở các chi nhánh hiện nay chưa có tính chiến lược với mục tiêu dài hạn về hoạt động trên địa bàn, nhiều khi phụ thuộc vào ngân hàng cấp trên về chỉ tiêu được giao.

Mở rộng tín dụng, các ngân hàng luôn phải đối phó với sự gia tăng nợ quá hạn cùng với hạn chế về năng lực đánh giá khách hàng. Các ngân hàng đã quá coi trọng tài sản thế chấp nhằm đảm bảo an toàn vốn cho vay: Hầu hết các khoản vay mà các ngân hàng cung cấp cho các doanh nghiệp đều dựa trên tài sản thế chấp. Năng lực đánh giá khách hàng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan khác nhưng có một yếu tố là trình độ của cán bộ ngân hàng chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động nên các phân tích khách hàng có thể đã được thực hiện mang tính thủ tục.

Mạng lưới ngân hàng tuy đã được mở rộng nhưng nhiều nơi còn xa dân, chưa thật tiện lợi. Công tác thông tin tuyên truyền của các ngân hàng chưa làm thường xuyên, thấu đáo đến người dân về dịch vụ ngân hàng. Do vậy vốn tại địa phương chưa khai thác hết tiềm năng.

Công tác cán bộ còn có những điểm hạn chế. Theo các báo cáo thanh tra ngân hàng Nhà nước Hưng Yên, Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh có hệ thống ngân hàng cơ sở rộng nhất, hoạt động mạnh nhất, hoạt động rộng nhưng tổ chức quản lý và kiểm tra không chặt chẽ kịp thời nên đã xảy ra một số sai phạm.


Tóm tắt chương 2

Tóm lại, chương 2 luận án đã tập trung nghiên cứu và chỉ ra:

1. Trong giai đoạn từ 1997 đến 2007; nền kinh tế Hưng Yên đã và đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ. Nhu cầu vốn đầu tư trong thời gian này rất lớn.

2. Các ngân hàng trên địa bàn Hưng Yên đã có những đóng góp tích cực trong đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh thể hiện ở mức gia tăng dư nợ tín dụng theo ngành và thành phần kinh tế.

3. Những đóng góp tích cực của huy động và sử dụng vốn đầu tư của ngân hàng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh:

- đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần gia tăng tài sản, năng lực sản xuất cho các ngành, thành phần kinh tế.

- Các phân tích định tính và định lượng cho thấy tín dụng ngân hàng do các ngân hàng trên địa bàn cung cấp đã tác động tích cực vào tăng trưởng của các ngành kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, mặc dù mức tác động chưa thực sự mạnh.

4. Những hạn chế còn tồn tại: (i) Khối lượng tín dụng chưa xứng tầm nhu cầu đầu tư; (ii)Tỷ trọng tín dụng trung dài hạn còn thấp; (iii) Hình thức tín dụng chưa phù hợp.

5. Những nguyên nhân của hạn chế: (i) Khó khăn trong huy động vốn;

(ii) Tình trạng thông tin không cân xứng; (iii) Quan hệ thanh toán chủ yếu sử dụng tiền mặt, còn chịu ảnh hưởng của thị trường tín dụng không chính thức; (iv)Những bất ổn kinh tế vĩ mô và can thiệp của chính phủ; (v)Công tác quản trị điều hành của các ngân hàng nhiều mặt chưa tốt.


Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP VỀ HUY đỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN đẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG CHO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU

KINH TẾ TRÊN đỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN


3.1. đỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ NHU CẦU VỐN đẦU TƯ CHO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở HƯNG YÊN

3.1.1. định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hưng Yên


Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên đến năm 2015 và tầm nhìn đến 2020: Trong 10 năm tới phải kết hợp hài hoà giữa việc tạo ra bước phát triển nhanh công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh nguồn thu ngân sách với việc phát triển thương mại, dịch vụ nông nghiệp và công nghiệp nhỏ nông thôn để đạt tốc độ phát triển tương đối cao, thực hiện một bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế có công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao.

Phương án đã chọn chú ý tạo ra bước đi vững chắc, chủ động, phù hợp với khả năng nguồn vốn, nâng cao thu nhập dân cư, đồng thời tận dụng mọi thời cơ thu hút vốn nước ngoài và tỉnh ngoài nhằm phát triển nhanh ở giai đoạn sau 2010, đuổi kịp trình độ phát triển của các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng.

Giai đoạn phát triển 1997 - 2007 cho thấy xu hướng ngày càng cao của vai trò ngành công nghiệp với tăng trưởng kinh tế của tỉnh so với hai ngành công nghiệp và dịch vụ. Với phương án chọn cơ cấu kinh tế Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ đến năm 2010 là: 20% - 47% - 30%, đến năm 2015 là: 12,5% - 52,5% - 35% và năm 2020 là: 8% - 58% - 33%.


Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế mục tiêu và tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế của tỉnh theo kế hoạch

Nội dung

Cơ cấu kinh tế (%)

Tốc độ tăng trưởng b/q (%)

Giai đoạn

2010

2015

2020

2006-2010

2011-2015

2016-2020

Nông nghiệp

20,0

12,5

8,0

3,1

3,1

3,1

Công nghiệp

47

52,5

58

19,8

16,8

16,2

Dịch vụ

33

35

34

13,5

13,2

13,0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư của ngân hàng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh Hưng Yên - 12

Nguồn: [51]

Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 là 13,5%/năm và các ngành kinh tế phát triển theo các định hướng:

định hướng phát triển ngành nông nghiệp

- Sản phẩm mũi nhọn: lúa hàng hoá, quả đặc sản.

để công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, tỉnh đã có quy hoạch bố trí lại sản xuất theo hướng:

- đối với ngành trồng trọt, bố trí xắp xếp lại cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa. đẩy mạnh thâm canh cây lương thực, tăng nhanh tỷ trọng các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ nhất là cây ăn quả và cây thực phẩm.

- đối với ngành chăn nuôi,

Từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, dự kiến chăn nuôi chiếm khoảng 40% giá trị sản xuất nông nghiệp vào năm 2010 và 50% vào năm 2020. Chú trọng phát triển nhanh các loại gia súc gia cầm cho thịt, trứng chất lượng cao như lợn hướng nạc, bò lai sind và gà vịt siêu trứng.

Thị trường hàng nông sản: Triển vọng thị trường xuất khẩu của các loại hàng nông sản là tương đối sáng sủa bởi nhu cầu ngày càng tăng trên thị trường thế giới (tuy tốc độ tăng không lớn). Ngoài thị trường truyền thống, các nước Tâu Âu, Bắc Mỹ, các nước công nghiệp mới châu Á đang có xu


hướng sử dụng ngày càng nhiều các sản phẩm nông sản của Việt Nam, do vậy có thể khẳng định rằng quy mô thị trường các mặt hàng nông sản là lớn. Vấn đề là ở chỗ giá cả xuất khẩu của các mặt hàng này thường không ổn định, do vậy cần có các chính sách để có thể khắc phục các thiệt hại do sự biến động của giá quốc tế gây ra. để xâm nhập cần cải tiến kỹ thuật canh tác, cải tiến giống cây trồng, vật nuôi, hướng tới thị hiếu tiêu dùng, sử dụng công nghệ mới trong chế biến…

định hướng phát triển ngành công nghiệp

- định hướng xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn: công nghiệp lắp ráp và chế biến.

- Công nghiệp chế biến nông sản.

Trước mắt ưu tiên nâng cấp, mở rộng các cơ sở hiện có, đầu tư chiêu sâu, mở rộng và hiện đại hoá xí nghiệp chế biến đồ hộp xuất khẩu tại thị xã Hưng Yên, nâng cấp dây truyền chế biến rau quả hiện có, lắp đặt thêm dây truyền chế biến quả đặc sản: Nhãn, táo, nước quả… nâng công suất từ 650 tấn hiện nay lên 4.000 tấn năm 2010.

- Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng

Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng là ngành hàng Hưng Yên có truyền thống và nhiều ưu thế cần được phát triển mạnh mẽ trên cơ sở tiếp thu công nghệ hiện đại của nước ngoài. Theo quy hoạch sẽ đầu tư thêm 4 dây truyền may xuất khẩu ở Công ty may II, Liên doanh may Phố Hiến, Công ty cơ khí may Hưng Yên, phấn đấu đưa công suất may xuất khẩu đạt khoảng 10 triệu sản phẩm vào năm 2010. Trên cơ sở hợp tác liên doanh với Malayxia và Italia xây dựng nhà máy sợi - dệt công suất 4.500 tấn năm. đẩy nhanh tiến đọ thực hiện dự án sản xuất giấy KRAFT, sản xuất bao bì chất lượng cao tại nhà máy giấy Thanh Long, công suất đạt 1.000 tấn/ năm.


- Các ngành công nghiệp lắp ráp, chế tạo

Tận dụng tối đa lợi thế của 23 km đường 5 và nằm cạnh thủ đô Hà Nội để thu hút các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước, liên doanh với các cơ sở lắp ráp đã có trong vùng để lắp ráp các mặt hàng tiêu dùng cao cấp như: ôtô, xe máy, điện tử điện lạnh… tại Phố Nối và Như Quỳnh. Dự kiến năm 2010 các ngành này sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong công nghiệp của tỉnh.

- Các ngành tiểu thủ công nghiệp

Chú trọng phát triển các ngành sản xuất vật liệu xây dựng như sản xuất gạch Bloc từ cát đen, vật liệu vách ngăn, đồ gốm, chế biến lông vũẶKhôi phục và mở rộng các làng nghề truyền thống khuyến khích phát triển các ngành nghề mới theo hướng gia công sơ chế cho các khu công nghiệp tập trung khi có điều kiện.

Thị trường hàng công nghiệp: Triển vọng thị trường hàng công nghiệp sẽ vô cùng lớn về quy mô, vô cùng đa dạng về chủng loại. Nhưng đây cũng là khu vực thị trường cạnh tranh rất gay gắt và với trình độ hiện nay rất nhiều sản phẩm công nghiệp của Việt Nam nói chung và Hưng Yên nói riêng khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế. để thâm nhập được, Hưng Yên cần khuyến khích các công ty tìm kiếm các đồng minh chiến lược với công nghệ, kỹ năng quản lý và tên nhãn hiệu mang tính toàn cầu. đối thủ cạnh tranh lớn nhất về hàng công nghiệp là Trung Quốc.

định hướng phát triển ngành dịch vụ

Chủ trương của tỉnh là khai thác tối đa lợi thế của tỉnh là gần thủ đô Hà Nội và các trung tâm công nghiệp lớn để phát triển mạnh các ngành thương mại, dịch vụ và du lịch theo hướng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống.

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 22/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí