Sơ Đồ Tổ Chức Bộ Máy Quản Trị Rrtd Theo Basel Ii


3.3 Quản trị RRTD theo Basel:

Theo quan điểm của ủy ban Basel trong Nguyên tắc quản trị RRTD (Uỷ Ban Basel, 2001) Quản trị RRTD là việc thực hiện các biện pháp để tối đa hóa tỷ suất sinh lời điều chỉnh theo RRTD bằng cách duy trì số dư tín dụng trong phạm vi các tham số cho phép.

Như vậy, những khái niệm RRTD như đã đề cập ở mục 3.2 mặc dù không hoàn toàn giống nhau nhưng chủ yếu thiên về mô tả quá trình thực hiện quản trị RRTD. Khái niệm quản trị RRTD của Ủy ban Basel đã làm rò mục tiêu cuối cùng của quản trị RRTD là tối đa hóa lợi nhuận trong giới hạn RRTD mà ngân hàng thương mại có thể chấp nhận. Từ các nội dung đã được đề cập trong khái niệm RRTD, để đạt được mục tiêu quản trị RRTD theo Basel các ngân hàng thương mại cần phải giải quyết được 3 vấn đề:

Xác định được giới hạn chấp nhận RRTD trên cơ sở chiến lược kinh doanh, mục tiêu lợi nhuận trong từng thời kỳ.

Đảm bảo RRTD luôn nằm trong giới hạn đã đề ra của ngân hàng bằng những chiến lược, chính sách, quy trình quản trị rủi ro.

Đảm bảo đủ vốn và dự phòng RRTD trước những tổn thất có thể xảy ra do RRTD.

3.3.1 Sự ra đời của Uỷ ban Basel và hiệp ước quốc tế Basel:

Năm 1974, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) được thành lập bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của nhóm 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel thuộc quốc gia Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ

80. Hiện tại, BCBS đã bổ sung thêm các thành viên là đại diện của ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng thuộc nhiều quốc gia trên thế giới. Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm. Mục tiêu hoạt động của BCBS là nâng cao chất lượng giám sát hoạt động ngân hàng của các quốc gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.


Ủy ban Basel xây dựng, công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát ngân hàng với kỳ vọng rằng các tiêu chuẩn sẽ được áp dụng rộng rãi bởi các tổ chức, tuy nhiên mỗi tổ chức sẽ thực hiện theo một phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm từng quốc gia, vùng miền. Như vậy, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung nhưng không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Mặc dù những kết luận của Uỷ ban Basel không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ nhưng hầu hết các quốc gia trên thế giới đều triển khai và áp dụng vào hệ thống ngân hàng của mình.

Áp dụng Basel II vào quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín - 5

3.3.2 Sơ lược về hiệp ước Basel I, II, III:

Lịch sử vắn tắt của Hiệp ước vốn Basel :

Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời vào năm 1988 có hiệu lực từ 1992, đến năm 1996 thì Basel I được bổ sung thêm rủi ro thị trường và phiên bản này được áp dụng chậm nhất vào ngày 1/1/1998. Đến tháng 6/1999, khung hiệp ước vốn mới được đề xuất với chương trình tư vấn lần thứ nhất (First Consultative Package- CP1), lần thứ hai (CP2) vào đầu năm 2001 và lần thứ ba (CP3) vào khoản cuối tháng 4/2003.

Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn Basel ra đời (Basel II). Basel II được chính thức áp dụng vào tháng 1/2007.

Ngày 12/9/2010, chuẩn mực vốn Basel III ra đời có hiệu lực từ năm 2013 và được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018, kể từ ngày 1/1/2019 Basel III sẽ được thực hiện đầy đủ.

a) Hiệp ước Basel I:

Năm 1988, hệ thống đo lường vốn và RRTD được ban hành bởi Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng yêu cầu các ngân hàng phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu như một tấm đệm ứng phó cú sốc từ những rủi ro có thể xảy ra. Tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu là tỷ lệ giữa vốn bắt buộc và tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro (Capital Adequacy Ratio-CAR) là 8%. Văn bản chuẩn hóa này được gọi là Hiệp ước về vốn đầu


tiên của Basel (Basel I) được các nước thành viên G10 triển khai từ năm 1992, nhưng sau đó có rất nhiều nước khác trên thế giới tự nguyện tuân thủ. Theo Basel I, khi CAR lớn hơn10% ngân hàng có mức vốn tốt nhất, ngân hàng có mức vốn thích hợp khi CAR trên 8%, thiếu vốn khi CAR dưới 8%, thiếu vốn rò rệt khi CAR nhỏ hơn 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR thấp hơn 2%.

Hệ số an toàn vốn CAR là tỷ lệ giữa vốn tự có và tổng tài sản có rủi ro trong đó vốn tự có bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 chủ yếu là vốn chủ sở hữu ngoài ra còn có lợi nhuận không chia, thặng dư vốn cổ phần,… là những nguồn vốn có độ tin cậy và tính thanh khoản cao; Vốn cấp 2 là nguồn vốn bổ sung có độ tin cậy thấp hơn như trái phiếu chuyển đổi, vốn tăng do đánh giá lại tài sản, dự phòng chung, quỹ dự phòng tài chính. Vốn cấp 3 gồm những khoản vay ngắn hạn sẽ không được xét đến khi tính tỷ lệ an toàn vốn.

Bốn mức trọng số rủi ro mà Basel I đưa ra cho các loại tài sản gồm 0%, 20%, 50% và 100%. Rủi ro thị trường được Basel I bổ sung vào năm 1996 và được thực thi chậm nhất vào 1/1/1998.

b) Hiệp ước Basel II:

Quý 4/ 2003, phiên bản mới của Basel I là Basel II được ban hành và có hiệu lực từ tháng 1/2007 sau cuộc khủng hoảng ngân hàng vào những năm 1990. Basel II có một lộ trình thực hiện đến năm 2009 và đến năm 2010 sẽ được thực hiện đầy đủ. Trong đó, CAR tối thiểu vẫn là 8% trên tổng tài sản có rủi ro, nhưng ngoài RRTD Basel II bổ sung thêm 2 yếu tố là rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường vốn là những rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt. Trọng số rủi ro bao gồm nhiều mức dao động từ 0% đến 150% hoặc hơn. Như vậy cách tính hệ số an toàn vốn có phần khắt khe hơn cách tính của Basel I do phần mẫu số có sự thay đổi đáng kể.

Basel II được ban hành với mục tiêu: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng


hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.

Basel II sử dụng khái niệm “Ba trụ cột”:

Trụ cột thứ I yêu cầu các ngân hàng duy trì một mức vốn bắt buộc. Trong đó, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Nhưng ngoài RRTD, việc tính toán vốn được bổ sung thêm rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.

Trụ cột thứ II liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định một khung giải pháp cho các rủi ro ngân hàng phải đối mặt mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk) như rủi ro thanh khoản, rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, và rủi ro pháp lý. Tóm lại, Basel II nhấn mạnh các nguyên tắc rà soát, giám sát sau: Ngân hàng xây dựng một quy trình nội bộ đánh giá mức độ đầy đủ vốn theo danh mục rủi ro và cố gắng duy trì mức vốn như đã định; Các cơ quan giám sát thường xuyên theo dòi, đánh giá việc xác định mức vốn nội bộ và chiến lược duy trì mức vốn cũng như khả năng tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu của ngân hàng. Nếu kết quả giám sát quy trình không như mong đợi, giám sát viên có thể thực hiện một số hành động giám sát thích hợp; Khuyến khích các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định; Để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định giám sát viên nên can thiệp và có thể yêu cầu điều chỉnh ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu đặc biệt là ở giai đoạn đầu. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), nếu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tăng từ 7% lên 8% thì xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng giảm đi khoảng 25-30%.

Trụ cột thứ III đề cập tới việc các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách minh bạch theo nguyên tắc thị trường. Các thông tin buộc các ngân hàng phải công khai thuộc danh sách mà Basel II đưa ra gồm cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn, những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với RRTD, rủi ro


thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.

c) Hiệp ước Basel III:

Ngày 12/9/2010, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ vào những năm 2007 đến năm 2010, BCBS đưa ra chuẩn mực vốn Basel III nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của Basel II, chủ yếu về quản lý thanh khoản, yêu cầu vốn đệm theo chu kỳ của nền kinh tế và giới hạn tỷ lệ đòn bẩy vốn. Trong đó, tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%), Basel III đưa ra các nguyên tắc chặt chẽ ngăn chặn lạm dụng chia cổ tức cao trong bối cảnh tài chính không đảm bảo đồng thời rà soát lại tiêu chuẩn vốn cấp 1, vốn cấp 2.

Basel III có hiệu lực từ năm 2013 và được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018, sau đó được áp dụng đầy đủ kể từ ngày 1/1/2019.

3.3.3 Sự cần thiết của việc áp dụng Basel trong quản trị RRTD tại các ngân hàng:

Việc triển khai Basel giúp chuẩn hóa, cải thiện, nâng cao hiệu quả và lành mạnh hóa lĩnh vực ngân hàng thông qua việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế. Nhờ vậy, tạo cho ngân hàng một vị thế bình đẳng trên sân chơi quốc tế.

Basel được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản nhằm đảm bảo các ngân hàng duy trì đủ nguồn vốn đối phó với những rủi ro có thể xảy ra mà ngân hàng phải đối mặt trong đó RRTD là rủi ro có ảnh hưởng trực tiếp.

Basel không chỉ định lượng rủi ro trong hiện tại mà quan trọng hơn là định lượng rủi ro cho tương lai với một xác suất chính xác đã được các tổ chức tín dụng trên thế giới chấp nhận. Như vậy, việc áp dụng Basel trong quản trị RRTD giúp các ngân hàng dự đoán và ra quyết định cho vay cũng như thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời làm gia tăng hiệu quả quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Chuẩn mực Basel là bước chuyển hóa cơ bản đầu tiên để ngân hàng thương mại có nhận thức cơ bản nhằm thay đổi phương thức điều hành, thiết lập chiến lược và mục


tiêu, đưa ra quyết định kinh doanh tiếp cận từ khía cạnh rủi ro. Kinh doanh tín dụng ít rủi ro sẽ giảm thiểu tổn thất, tăng lợi nhuận cho ngân hàng.

3.3.4 Phương pháp quản trị RRTD theo Basel II:

a) Nguyên tắc quản trị RRTD theo Basel:

Uỷ ban Basel đã đề xuất 17 nguyên tắc cơ bản để đánh giá mức độ đầy đủ và hiệu quả trong công tác quản trị RRTD của ngân hàng. Những nguyên tắc này có thể phân thành 5 nhóm chính bao gồm: Thiết lập môi trường RRTD phù hợp; Hoạt động theo một quy trình cấp tín dụng lành mạnh; Duy trì quy trình quản lý, đo lường và giám sát phù hợp; Hệ thống kiểm soát RRTD; Giám sát RRTD. Chi tiết 17 nguyên tắc tham khảo phụ lục 2.

b) Chiến lược quản trị RRTD theo Basel II:

Chiến lược quản trị RRTD là một chương trình, kế hoạch mang tính chất dài hạn về quản trị RRTD với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở rủi ro được kiểm soát ở mức độ có thể chấp nhận được.

Chiến lược quản trị RRTD bao gồm mục tiêu, nguyên tắc và các lĩnh vực kinh doanh cốt lòi. Chiến lược quản trị RRTD phải đề xuất các mục tiêu tín dụng tổng quát mà ngân hàng hướng tới bao gồm: đối tượng, ngành, vùng, đơn vị tiền tệ, loại hình cho vay, kỳ hạn, tỷ suất sinh lợi mong đợi, đặc điểm rủi ro của danh mục tín dụng. Xây dựng chiến lược quản trị RRTD phải tính đến khả năng của ngân hàng bao gồm: vốn tự có, mục tiêu tăng trưởng và chất lượng tín dụng, tỷ suất sinh lời dự kiến, sự biến động của môi trường kinh doanh, chu kỳ kinh tế và sự tác động của nó đến cơ cấu và chất lượng tín dụng.

c) Tổ chức bộ máy quản trị RRTD theo Basel II:

Hiện nay, để đảm bảo các nguyên tắc của Basel, các ngân hàng thương mại thực hiện tổ chức bộ máy quản trị RRTD “3 vòng kiểm soát” (three lines of defence)


HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ


BAN ĐIỀU HÀNH

Vòng thứ nhất:

QUAN HỆ KHÁCH HÀNG

Vòng thứ hai:

QUẢN LÝ RỦI RO

Vòng thứ ba:

KIỂM TOÁN NỘI BỘ

Biểu đồ 3.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị RRTD theo Basel II

Vòng thứ nhất bao gồm các bộ phận trực tiếp kinh doanh, bán hàng. Vòng này thực hiện chức năng xác định, đánh giá, ngăn ngừa, theo dòi và báo cáo rủi ro phát sinh trong hoạt động tín dụng. Trên cơ sở tự đánh giá RRTD gồm nhận diện, xác định, đánh giá rủi ro đầy đủ trước khi cấp tín dụng. Bộ phận quan hệ khách hàng lựa chọn khách hàng, thẩm định và chấp thuận cấp tín dụng trong giới hạn khẩu vị rủi ro của ngân hàng. Vòng thứ nhất có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiểm soát và hạn chế RRTD do trực tiếp cấp tín dụng và nhận RRTD, vòng này có thể hạn chế 80% RRTD của một ngân hàng.

Vòng thứ hai “Quản lý rủi ro” thực hiện 4 nhiệm vụ cơ bản gồm: thiết lập chiến lược, chính sách quản trị RRTD và ước lượng khẩu vị rủi ro của ngân hàng; xây dựng, ban hành các quy trình tín dụng, quy trình quản trị RRTD; xây dựng hệ thống thông tin, hệ thống các công cụ, biện pháp phục vụ cho quy trình quản trị RRTD ở từng khoản tín dụng và danh mục tín dụng; đánh giá và kiểm soát hiệu quả hoạt động vòng thứ nhất. Vòng quản lý rủi ro hạn chế 10% RRTD của một ngân hàng, tuy nhiên vòng thứ hai cũng có vai trò là cơ sở để vòng thứ nhất kiểm soát RRTD hiệu quả thông qua các chính sách quản trị rủi ro đã đề ra.

Vòng thứ ba “Kiểm toán nội bộ” đóng vai trò làm động lực để vòng thứ nhất và thứ hai hoạt động hiệu quả hơn, giảm thiểu sai phạm. Vòng thứ ba trực thuộc hội đồng quản trị để đảm bảo tính độc lập, giúp hội đồng quản trị và ban kiểm soát có thể kiểm


soát được thực trạng của bộ phận kinh doanh và bộ phận quản lý rủi ro trên toàn hệ thống. Vòng thứ ba giúp ngân hàng hạn chế khoảng 10% RRTD.

d) Chính sách quản trị rủi ro

Chính sách quản trị RRTD là hệ thống các quy định, hướng dẫn được thiết lập một cách đầy đủ, rò ràng dưới dạng văn bản. Chính sách quản trị RRTD chính là cụ thể hoá chiến lược quản trị RRTD. Chính sách quản trị RRTD bao gồm các nội dung chính: tiêu chuẩn cấp tín dụng, giới hạn cấp tín dụng, quy trình quản trị RRTD.

Theo quan điểm Basel II, trong bộ 17 nguyên tắc quản trị RRTD cũng có đề cập đến ngân hàng cần thiết lập đầy đủ, cụ thể, chi tiết các tiêu chuẩn, giới hạn tín dụng, các quy trình, thủ tục quản trị RRTD đối với từng khách hàng, nhóm khách hàng, từng loại hình tín dụng gồm khoản tín dụng mới và tín dụng tái cơ cấu, tái tài trợ căn cứ vào đặc điểm, mục tiêu cần đạt đối với từng hoạt động quản trị.

e) Quy trình quản trị rủi ro theo Basel II:

Nhận diện RRTD:

Theo trụ cột 2 của Basel II, để nhận diện đầy đủ RRTD ngân hàng cần chú ý 4 vấn đề cơ bản:

Ngân hàng cần có các phương pháp, công cụ phù hợp để phân tích và nhận diện đầy đủ RRTD hiện có hoặc có thể phát sinh đối với từng khoản tín dụng và danh mục tín dụng của ngân hàng.

Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và sử dụng để cung cấp thông tin cho việc nhận diện RRTD đối với tất cả các khoản vay.

Sử dụng công cụ kiểm tra sức chịu đựng (Stress testing) nhằm dự đoán và lường trước những căng thẳng về thị trường, các yếu tố tác động đến RRTD để nhận diện sớm RRTD.

Xác định các rủi ro ngân hàng chưa được đề cập trong trụ cột 1 như: rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hệ thống… để nhận diện RRTD một cách chính xác, đầy đủ.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/06/2022