Điều Kiện Để Thực Hiện Việc Hoàn Thiện Chính Sách Tài Chính Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội Ở Việt Nam

nguyên tắc đóng - hưởng và chênh lệch tăng tiền lương hưu khoảng 40% nếu so với cách tính lương hưu theo tiền lương đóng BHXH toàn bộ quá trình tham gia. Vì vậy cần phải điều chỉnh quy định mức tiền lương làm cơ sở để tính lương hưu những đối tượng hiện tại tính bình quân 5 năm thì nghiên cứu trong thời gian tới có thể điều chỉnh bình quân 10 năm và tiến tới bình quân đóng BHXH toàn bộ quá trình tham gia.

+) Về điều chỉnh tiền lương hưu: Khi điều kiện kinh tế xã hội của đất nước cho phép điều chỉnh tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống cho mọi người dân, thì người nghỉ hưu cũng được hưởng quyền lợi đó. Nhưng cũng cần phải thấy rằng người nghỉ hưu không còn trực tiếp đóng góp vào quỹ BHXH, vì vậy việc điều chỉnh tăng thu nhập cho người nghỉ hưu không nên gắn liền với chính sách tăng tiền lương cho NLĐ đang làm việc, mà nên điều chỉnh theo hướng: tăng mức chi tuyệt đối cho mọi người như chúng ta đã thực hiện tăng 25.000đ/người/tháng cho đối tượng nghỉ hưu trước 1985; không nên tăng theo tỷ lệ như các lần điều chỉnh tiền lương hưu gần đây. Tránh tình trạng người có mức lương hưu cao thì được điều chỉnh tăng càng nhiều, người có mức lương hưu thấp (thường có đời sống khó khăn) thì lại được tăng ít, dẫn đến khoảng cách chênh lệch thu nhập ngày càng lớn ngay đối với những người cùng hưởng lương hưu. Mà lẽ ra việc tăng thu nhập cho người hưởng lương hưu được hiểu gần như là một khoản phúc lợi xã hội mà mọi người phải được hưởng tương đối như nhau. Vì vậy, trong thời gian tới nên tách việc điều chỉnh tăng lương cho NLĐ với việc tăng thu nhập cho người nghỉ hưu.

+) Về chế độ ốm đau: Cần quy định cụ thể hơn về việc nghỉ ốm đau để hưởng chế độ BHXH, tránh sự lạm dụng của NLĐ và sự tùy tiện của một số cơ sở khám chữa bệnh cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm đau. Có thể quy định NLĐ ốm phải nghỉ làm việc đến ngày thứ 3 mới được hưởng BHXH như một số nước trên thế giới đã từng quy định. Có hình thức xử phạt nặng bằng tiền hoặc đình chỉ không cho quyền cấp giấy nghỉ ốm đối với những bác sĩ (hoặc y sĩ) và cơ sở khám chữa bệnh nếu vi phạm nhiều lần hoặc nghiêm trọng.

+) Về chế độ thai sản: Phải quy định thời gian NLĐ đã có đóng góp vào quỹ BHXH trong một thời gian tối thiểu nào đó mới được hưởng chế độ thai sản. Nếu không đủ thời gian đóng theo quy định thì chỉ được hưởng mức trợ cấp thấp hơn. Chẳng hạn như NLĐ phải đóng BHXH trong thời gian tối thiểu là 2 năm mới được hưởng đủ chế độ thai sản như hiện nay.

+) Về chế độ TNLĐ-BNN: Quy định thời gian khám định kỳ (khoảng 1 năm khám 1 lần) đối với chế độ này, nếu mức độ suy giảm sức khỏe tăng hoặc giảm thì được điều chỉnh chế độ hưởng theo mức độ suy giảm thực tế sau khi khám định kỳ.

4.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN VIỆC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Để thực hiện tốt các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính BHXH ở Việt Nam và đưa chính sách đó vào thực tế cần phải có các điều kiện sau:

4.4.1. Tăng cường vai trò của Nhà nước trong các hoạt động của BHXH

Trong thời gian qua, Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động BHXH nói chung và lĩnh vực quản lý tài chính BHXH nói riêng. Cho đến nay, Nhà nước đã xây dựng được hệ thống pháp lý cơ bản và tương đối đầy đủ để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực hoạt động BHXH bao gồm các điều luật trong Bộ luật Lao động, Luật cán bộ công chức, Luật viên chức, Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt nam và trong các Nghị định, Quyết định, Điều lệ và các Thông tư, văn bản pháp quy hướng dẫn sự nghiệp BHXH. Tuy nhiên, do tình hình thực tiễn đã thay đổi, một số văn bản pháp quy ban hành không còn phù hợp nữa, trở nên lỗi thời hoặc gây khó khăn trở ngại cho hoạt động của BHXH.

Trong thời gian tới, cần phải giải quyết các vấn đề sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

- Rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy đã ban hành trong lĩnh vực BHXH để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.

- Kiện toàn các chính sách, pháp luật khác có liên quan đến công tác quản lý thu, chi, đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.

Hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 23

Ngoài ra, Nhà nước cần phải có các biện pháp quyết liệt để hỗ trợ ngành BHXH tăng mức độ bao phủ BHXH, phấn đấu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH. Nhà nước cần định hướng mô hình hoạt động sự nghiệp BHXH, ngoài hệ thống BHXH hiện hành thì Nhà nước có thể cho phép thử nghiệm các mô hình khác để phù hợp hơn với số đối tượng, lĩnh vực đặc thù. Ở một chừng mực nào đó, Nhà nước phải bảo hộ cho đầu tư quỹ BHXH sao cho ít rủi ro nhất và có khả năng sinh lợi tốt. Nhà nước không đánh thuế thu nhập vào phần lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư sinh lời của quỹ BHXH. Quy định cụ thể hơn các hình thức đầu tư và phương thức đầu tư nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư của quỹ BHXH hiệu quả hơn, cũng như tăng cường trách nhiệm của tổ chức BHXH trong hoạt động này.

Nhà nước cần ban hàng các văn bản luật để khuyến khích các loại hình BHXH tự nguyện, bảo hiểm hưu trí bổ sung và các loại hình bảo hiểm thương mại để tạo nên một hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, đa trụ cột theo hướng tiếp cận với mô hình bảo hiểm xã hội của cá nước phát triển nhằm đàm bảo tốt hơn quyền lợi của người lao động trong xã hội.

4.4.2. Hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy và cán bộ

Để điều hành tốt các hoạt động BHXH cần có bộ máy hợp lý, đủ mạnh, đảm bảo linh hoạt và có đủ năng lực quản lý. Muốn vậy cần thực hiện:

4.4.2.1. Về tổ chức bộ máy

Hiện nay, theo Nghị định 01/2016/NĐ-CP, ngày 05/01/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH đã được thành lập từ Trung ương đến địa phương theo mô hình 3 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện. Mô hình 3 cấp này đã làm tốt chức năng và nhiệm vụ do Chính phủ giao cho, góp phần phát triển sự nghiệp Bảo hiểm xã hội nước nhà, được Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Trong thời gian tới, Bảo hiểm xã hội Việt nam cũng cần thiết giữ nguyên mô hình 3 cấp không chia lẻ quỹ cho các Bộ, Ngành quản lý, không thành lập BHXH ngành.

Để hoàn thiện hơn nữa cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động thì cần kiện toàn Hội đồng quản lý - cơ quan cao nhất của BHXH Việt Nam trên cơ sở mở rộng quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ và số lượng thành viên của Hội đồng quản lý để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện thu, chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, bổ sung thêm chức năng nhiệm vụ của Hội đồng quản lý trong công tác đầu tư tăng trưởng, được quyền xem xét, lựa chọn thêm các phương án đầu tư cho thích hợp.

4.4.2.2. Về đội ngũ cán bộ

Để tăng trưởng công tác quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, thực hiện khoán chi hoạt động BHXH Việt Nam cần phải có một đội ngũ cán bộ công chức có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt.

BHXH là một ngành có chuyên môn sâu nhưng hầu hết số cán bộ làm công tác BHXH hiện nay chủ yếu có chuyên môn về kinh tế, tài chính, xã hội chưa được đào tạo chuyên môn BHXH. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong thời gian tới, công tác cán bộ ngành bảo hiểm xã hội tập trung thực hiện các mặt sau đây:

- Xây dựng tiêu chuẩn hoá chức danh cán bộ, công chức của ngành trên cơ sở quy định của Nhà nước.

- Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt là các chuyên gia giỏi, trẻ để thực thi nhiệm vụ và thay thế trong tương lai.

- Nâng cao tình độ mọi mặt của cán bộ, công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong các năm tới: đội ngũ cán bộ, công chức của ngành phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt, hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp BHXH.

Đào tạo tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực sau đây:

- Nghiệp vụ cơ bản trong tác nghiệp thu, chi, chế độ chính sách BHXH.

- Nghiệp vụ về thẩm định.

- Nghiệp vụ quản lý quỹ bảo hiểm xã hội.

- Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong bảo toàn và phát triển quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi.

- Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách và các chế độ BHXH.

- Thông tin về hoạt động BHXH trên thế giới.

- Ngoại ngữ.

- Chính trị và nhân văn.

- Xây dựng quy hoạch cán bộ trong tương lai để có lực lượng dự trữ và thay thế khi cần thiết.

4.4.3. Đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật cho bảo hiểm xã hội Việt Nam

4.4.3.1. Hoàn thành việc xây dựng trụ sở làm việc cho toàn bộ hệ thống BHXH Việt Nam từ Trung ương đến địa phương.

Tính đến hết năm 2016, hệ thống BHXH Việt Nam đã thực hiện xây dựng xong trụ sở Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh và 697 trụ sở Bảo hiểm xã hội quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh như vậy còn khoảng gần 80 trụ sở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh chưa được xây dựng cần phải tiếp tục thực hiện và hoàn thành để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức làm việc, đảm bảo an toàn về tiền của.

4.4.3.2. Hiện đại hoá biện pháp quản lý bằng công nghệ thông tin

Trên thế giới, các nước có nền kinh tế phát triển như: Pháp, Mỹ, Đức, Nhật,... đã sử dụng công nghệ thông tin để quản lý BHXH trong nhiều năm nay. Các nước trong khu vực như Philipin, Thái lan, Singapore, Malaysia,... cũng đã hoàn thiện nối mạng vi tính trong toàn quốc, toàn bộ công tác quản lý bảo hiểm xã hội của các nước này đều được sử dụng trên mạng vi tính rất thuận lợi cho công tác điều hành quản lý thu, chi và giải quyết chế độ BHXH.

Ở nước ta, trong giai đoạn tới, do khối lượng công tác quản lý thu, chi, quản lý đối tượng tăng lên gấp bội đòi hỏi cấp thiết phải được trang bị hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ, toàn bộ công tác quản lý BHXH phải được thực hiện bằng các phần mềm máy tính chuyên nghiệp mới có khả năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Ngành BHXH Việt Nam cần có một bộ cơ sở dữ liệu

tập trung để:

- Lưu trữ và khai thác thông tin của tất cả đối tượng đang hưởng chế độ BHXH và tất cả những người đã hết hạn hưởng chế độ BHXH. Xử lý các thông tin khi có biến động tăng, giảm đối tượng thụ hưởng BHXH hoặc điều chỉnh tăng, giảm trợ cấp khi chế độ chính sách thay đổi.

- Lập danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng cho từng đầu mối chi trả, theo dõi tình hình cấp phát và thanh toán kinh phí, lập báo cáo và sổ sách theo quy định.

- Quản lý lưu trữ hồ sơ của các đối tượng đã hết hạn hưởng chế độ, đã chết hay vi phạm pháp luật bị đi tù,…

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4


Trên cơ sở những lý luận chung về chính sách tài chính BHXH ở chương 2 và thực trạng chính sách tài chính BHXH ở chương 3, tại chương này nghiên cứu sinh đã phân tích được tình hình kinh tế xã hội Việt Nam và định hướng phát triển của BHXH Việt Nam tới năm 2025, tầm nhìn 2030. Từ đó, nghiên cứu sinh đã đưa ra các quan điểm chung và quan điểm cụ thể hoàn thiện chính sách tài chính BHXH ở Việt Nam. Trên cơ sở các quan điểm đó, luận án trình bày hệ thống giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính BHXH ở Việt Nam theo 4 nhóm sau:

Hoàn thiện chính sách huy động nguồn tài chính

Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn tài chính

Hoàn thiện chính sách đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam

Hoàn thiện chính sách cân đối quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam

Trong mỗi nhóm giải pháp, nghiên cứu sinh đã trình bày các giải pháp về hoàn thiện chính sách và các giải pháp về tổ chức thực hiện. Hệ thống giải pháp đề xuất đều dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn, trong mỗi giải pháp này có tính mới, kế thừa, thiết thực, đồng bộ và tận dụng được sự phát triển của khoa học công nghệ và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Đồng thời, để thực hiện được tốt và phát huy tính hiệu quả của các nhóm giải pháp trên, luận án đã đưa ra các điều kiện để thực hiện các giải pháp đó là phải tăng cường vai trò của Nhà nước trong các hoạt động của BHXH; Hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy và cán bộ của BHXH; Đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật cho BHXH Việt Nam.

KẾT LUẬN


BHXH là một trong những nhu cầu tất yếu trong cuộc sống của con người. Mục đích của BHXH là cung cấp sự bảo vệ cần thiết cho con người trước những mối đe doạ giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ các nguyên nhân như: thất nghiệp, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, ốm đau, tuổi già hay các nguy cơ khác. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về BHXH càng cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, xu thế già hoá dân số, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường, xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng kéo theo hệ quả là trình trang thất nghiệp, các loại bệnh tật gia tăng nên nhu cầu bảo hiểm là rất cấp bách.

Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), với các chính sách hiện hành, đến năm 2021, quỹ BHXH của Việt Nam sẽ có nguy cơ cao mất cân đối thu chi, buộc phải lấy từ nguồn kết dư để chi trả. Tuy nhiên, đến năm 2034 phần kết dư này cũng không còn dẫn đến khả năng vỡ quỹ và khi đó, người lao động sẽ không nhận được lương hưu. Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH phải được chú trọng đến hoạt động huy động nguồn tài chính cho quỹ BHXH; sử dụng nguồn tài chính quỹ BHXH và đầu tư tăng trưởng để tránh bị bội chi. Sự cân đối và tăng trưởng quỹ BHXH là một đặc trưng cơ bản của hoạt động bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và cũng là yêu cầu khách quan đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và phát huy tác dụng của chính sách BHXH trong việc đảm bảo ASXH và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bền vững. Do vậy, luận án đã tập trung nghiên cứu để hoàn thiện chính sách tài chính BHXH nhằm góp phần giải quyết các đòi hỏi của thực tiễn đã nêu ở trên.

Trên cơ sở lý thuyết và số liệu thống kê thu thập được, luận án đã tiến hành phân tích và đã đạt được một số kết quả chủ yếu như sau:

1. Luận án đã hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chính sách và chính sách tài chính BHXH; các nguyên tắc của chính sách tài chính BHXH, các bộ phận cấu thành của chính sách tài chính BHXH và các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách tài chính BHXH. Luận án đã tìm hiểu kinh nghiệm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/02/2024