Giải Pháp Hoàn Thiện Chính Sách Tài Chính Bảo Hiểm Xã Hội Ở Việt Nam

4.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

4.3.1. Hoàn thiện chính sách huy động nguồn tài chính


Để duy trì sự tồn tại và phát triển, con người phát sinh nhiều loại nhu cầu khác nhau. Khi thu nhập thấp, mức sống chưa cao thì nhu cầu cấp thiết nhất là thoả mãn các điều kiện ăn, ở, mặc, học hành và dành dụm một phần thu nhập để đảm bảo cuộc sống khi ốm đau, thai sản, tuổi già. Khi thu nhập được nâng cao, mức sống được nâng lên, lúc đó con người phát sinh nhiều nhu cầu mới, đa dạng và phong phú hơn. Mức độ dành dụm để bảo đảm cuộc sống khi ốm đau, tai nạn, tuổi già cũng tăng càng nhiều hơn và thường xuyên hơn. Đó là nhu cầu về BHXH. Nhu cầu về BHXH của người lao động luôn luôn phát sinh gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về BHXH cũng ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú hơn.

Muốn BHXH thực sự là là trụ cột chính của hệ thống ASXH, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo sự ổn định về tình hình kinh tế

- chính trị thì cần thực hiện các giải pháp sau để nâng cao hiệu quả huy động nguồn tài chính cho BHXH:

4.3.1.1. Nhóm giải pháp về chính sách


Thứ nhất, tiếp tục sửa đổi luật để mở rộng phạm vi bao phủ của BHXH, tăng dần diện bảo vệ cả về loại hình bảo hiểm và chế độ bảo hiểm

Hiện nay nước ta có khoảng 90 triệu người, trong đó có khoảng 60 triệu người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi). Nhưng số người tham gia BHXH bắt buộc tính đến thời điểm cuối năm 2016 mới đạt hơn 13,4 triệu người, bằng khoảng 24% số người trong độ tuổi lao động, còn gần 76% số người trong độ tuổi lao động là chưa tham gia đóng BHXH [80]. Trong khi đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng đặt ra từ nay đến năm 2021 chúng ta phải đạt được 35% số NLĐ tham gia BHXH bắt buộc, đến năm 2025 tỷ lệ này là 45% và đến năm 2030 là 60%. Đây là tiềm năng rất lớn để tăng số người tham gia BHXH. Vì vậy cần thực hiện đồng bộ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

các nội dung cải cách chính sách tài chính BHXH để mở rộng diện bao phủ, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân.

Thứ hai, bổ sung hoàn thiện mức thu BHXH

Hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 20


Hiện nay, theo quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14 tháng 4 năm 2017 thì mức thu BHXH của nước ta là 25,5% trên tiền lương, tiền công của NLĐ trong đó NLĐ đóng 8%, NSDLĐ đóng 17,5% để chi trả cho 5 chế độ BHXH. Nếu nâng mức đóng của NLĐ lên nữa sẽ ảnh hưởng tới đời sống của họ vì mức thu nhập bình quân hiện nay là khá thấp, sau khi đóng BHXH và các khoản đóng góp khác, người lao động chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu. Đối với NSDLĐ tuy khoản đóng góp là 21,5% trên tổng quỹ tiền lương (trong đó BHXH là 17,5%, bảo hiểm y tế là 3%, bảo hiểm thất nghiệp là 1%) được hạch toán vào giá thành sản phẩm nhưng trong điều kiện sức mua của thị trường có hạn thì khó có thể tăng mức đóng góp của chủ sử dụng lao động. Nếu tăng mức đóng BHXH lên sẽ tăng giá thành sản phẩm người tiêu dùng không chấp nhận, dẫn đến xí nghiệp bị thua lỗ do vậy sẽ không còn khả năng đóng BHXH.

Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự nâng cao chất lượng đời sống của người lao động thì BHXH cũng phải mở rộng thêm các chế độ trợ cấp BHXH. Việc mở rộng thêm các chế độ trợ cấp BHXH cũng phải tính đến nguồn bù đắp. Lúc đó phải tính đến việc tăng phí đóng góp BHXH cho tương xứng với việc hưởng thêm các chế độ trợ cấp mới.

Vì vậy, cần sửa đổi các quy định về mức thu, căn cứ thu BHXH để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ BHXH. Theo đó, sửa đổi quy định về căn cứ thu BHXH của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lương và các khoản thu nhập khác có tính chất lương của NLĐ để khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ BHXH, ảnh hưởng đến khả năng cân đối quỹ BHXH và quyền lợi của NLĐ. Do đó, rất cần thiết phải nghiên cứu điều chỉnh tỉ lệ thu vào quỹ BHXH theo hướng hài hoà quyền lợi giữa NSDLĐ và NLĐ.

Thứ ba, sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia BHXH tối thiểu

Mục đích là để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Cụ thể: Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp nhằm tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia BHXH thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi BHXH. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cách tính lương hưu, bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa người có mức lương cao với người có mức lương thấp để thu hẹp khoảng cách về thu nhập trong các đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, NLĐ làm việc theo chế độ linh hoạt.

Thứ tư, sửa đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ BHXH một lần: Cần phải có quy định phù hợp để giảm tình trạng hưởng BHXH một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia BHXH để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng BHXH một lần.

4.3.1.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện


Để mở rộng phạm vi bao phủ của BHXH, tăng dần diện bảo vệ cả về loại hình bảo hiểm và chế độ bảo hiểm thì cần thực hiện đồng bộ như sau:

- Xây dựng hệ thống BHXH đa tầng: BHXH cơ bản, bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện: BHXH bắt buộc (với các chế độ hưu trí, tử tuất, TNLĐ-BNN, ốm đau, thai sản, thất nghiệp) dựa trên đóng góp của NLĐ và NSDLĐ. BHXH tự nguyện (với các chế độ hưu trí, tử tuất hiện nay, từng bước mở rộng sang các chế độ khác) dựa trên đóng góp của NLĐ không có quan hệ lao động; có sự hỗ trợ phù hợp từ NSNN cho nông dân,

người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức để mở rộng diện bao phủ BHXH; nâng cao ý thức, trách nhiệm của NLĐ đối với việc tự bảo đảm an sinh cho bản thân. Phát triển bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho NSDLĐ và NLĐ có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn.

- Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách BHXH cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ: Nghiên cứu hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chú trọng không chỉ các giải pháp xử lý hậu quả thông qua việc chi trả trợ cấp thất nghiệp, đào tạo đáp ứng yêu cầu của công việc mới, giới thiệu việc làm mà cần chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp thông qua việc hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho NLĐ. Nghiên cứu thiết kế các gói BHXH tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để NLĐ có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng. Mở rộng các chế độ BHXH tự nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc, hướng tới chính sách BHXH bắt buộc đối với toàn bộ NLĐ có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết.

- Tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý có liên quan ở Trung ương và ở các địa phương để thực hiện công tác thống kê toàn bộ các đơn vị và NLĐ phải tham gia BHXH. Đặc biệt quan tâm để nắm đầy đủ số lượng đơn vị và NLĐ đang phải tham gia BHXH ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đối với các đơn vị cần phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp (Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố), cơ quan quản lý và thu thuế ở địa phương.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích các chế độ, chính sách, quyền lợi và trách nhiệm của NSDLĐ và NLĐ khi tham gia BHXH, để họ hiểu và tự giác tham gia và đóng BHXH đầy đủ, kịp thời. Việc tuyên truyền cần phải được thực hiện thường xuyên qua phương tiện thông tin đại chúng, báo,... Công

tác tuyên truyền càng có nội dung dễ hiểu, gắn với đời sống người dân lao động, phù hợp với truyền thống dân tộc.

- Ngoài ra, cần có biện pháp dự báo được số người tham gia BHXH trong thời gian tới: Trên cơ sở dự báo được số người tham gia đóng BHXH mới dự báo được nguồn quỹ, mới cân đối được thu - chi tài chính BHXH. Để dự báo được số lượng người tham gia đóng BHXH trong một thời kỳ nào đó phải căn cứ vào các yếu tố chủ yếu sau:

+) Tốc độ phát triển dân số hàng năm, tỷ lệ chết hàng năm.

+) Tổng số lao động trong độ tuổi trong đó phân rõ nam, nữ theo từng độ tuổi, theo từng lĩnh vực lao động.

+) Tổng số lao động của các ngành, của từng vùng, lao động trong khu vực Nhà nước, lao động trong các thành phần kinh tế khác, lao động tự do,...

+) Tuổi thọ bình quân của người lao động.

+) Thu nhập bình quân đầu người và phân theo từng ngành nghề.

+) Tỷ lệ thất nghiệp hàng năm.


Để thực hiện tốt công tác thu, đảm bảo thu đúng đối tượng, thu đủ và hạn chế tối đa nợ đọng BHXH thì cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau:

- Tổ chức tốt công tác quản lý thu BHXH. Quản lý đầy đủ, chính xác, kịp thời đối tượng tham gia BHXH, cụ thể:

+) Phối hợp với cơ quan quản lý liên quan ở trung ương và các địa phương thống kê toàn bộ các đơn vị và người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt là cần biết đầy đủ số lượng đơn vị sử dụng lao động cũng như số lượng người lao động ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

+) Cấp số BHXH đầy đủ cho người lao động và theo dõi đầy đủ quá trình tham gia BHXH cũng như mức đóng góp của họ, theo dõi quản lý và ghi chép đầy đủ, kịp thời sự biến động về lao động của từng đơn vị.

+) Phân loại đơn vị tham gia BHXH theo quy mô và loại hình: Cần phân loại các đơn vị tham gia BHXH theo 3 mức quy mô là lớn, vừa và nhỏ; theo

loại hình là hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cán bộ phường, xã và tổ chức ngoài công lập. Trên cơ sở đó, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ phần, từng cá nhân thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt nam trực tiếp quản lý thu đối với từng đơn vị sử dụng lao động cho phù hợp với năng lực của họ. Cần chú ý phân công những cán bộ có trình độ nghiệp vụ vững vàng để quản lý các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

+) Gắn việc giải quyết các chế độ chính sách cho NLĐ với nghĩa vụ phải đóng BHXH của họ với chủ sử dụng lao động. Tất cả các cơ quan, đơn vị, cá nhân không đóng BHXH hoặc nợ đóng BHXH nhiều lần đều chưa được giải quyết các chế độ BHXH.

+) Cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thanh tra lao động, Thanh tra Chính phủ, các tổ chức công quyền và các tổ chức chính trị xã hội để kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc kê khai lao động, quỹ tiền lương và đóng BHXH. BHXH phối hợp với các cơ quan giám sát pháp luật để xử phạt nghiêm minh hoặc có hình thức xử lý cao đối với những trường hợp cố tình trốn tránh, gian lận trách nhiệm tham gia và đóng BHXH. Có thể ngoài việc truy thu BHXH còn tiến hành phạt tài chính nặng nếu cố tính trốn đóng BHXH. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, nơi nào xử lý nghiêm túc sẽ cho kết quả tốt.

+) Định kỳ hàng quý tiến hành thông báo công nợ BHXH ở các đơn vị sử dụng lao động có số tiền lớn cho giám đốc, chủ tịch công đoàn cơ sở, đồng thời báo cáo với cơ quan chủ quản và Đảng uỷ cấp trên. Trên cơ sở đó làm rõ chính sách BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, do đó phải được xem xét là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị ở mỗi cơ sở Đảng, mỗi đơn vị. Tăng cường công tác phân công cán bộ chuyên quản trực tiếp đối với các đơn vị sử dụng lao động, thường xuyên bám sát các đơn vị sử dụng lao động để đôn đốc tiến độ nộp BHXH.

+) Quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH, không cho các đơn vị, cá nhân thu BHXH bằng tiền mặt. BHXH các tỉnh thành phố cũng như BHXH cấp huyện

không được dùng tiền thu BHXH để chi tiêu cho bất kỳ nội dung công việc gì. Theo định kỳ phải chuyển nộp hết về tài khoản của BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung.

+) Có chính sách khen thưởng, khuyến khích đối với các cá nhân, đơn vị sử dụng lao động đạt thành tích tốt trong công tác thu và quản lý thu BHXH.

- Triển khai công tác thu BHXH thuận lợi, cải cách, giảm thiểu các thủ tục hành chính nhằm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, hạn chế đến mức thấp nhất việc thất thu của quỹ BHXH.

+) Đổi mới công tác đăng ký tham gia BHXH, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý đối tượng tham gia BHXH (mã hoá đối tượng tham gia BHXH để dễ dàng cho công tác quản lý).

+) Đa dạng hoá các hình thức thu BHXH. Qua nghiên cứu kinh nghiệm về thu BHXH của một số nước phát triển và từ thực tiễn của Việt Nam, có thể thực hiện một số hình thức thu BHXH như sau để đảm bảo thu đúng, thu đủ, tránh thất thoát quỹ BHXH như: Thu BHXH thông qua dịch vụ thu BHXH; tổ chức thu BHXH thông qua cơ quan thuế; thu BHXH qua hệ thống ngân hàng.

+) Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ thống thu BHXH như: BHXH phối hợp với ngành Lao động, thương binh và xã hội, phối hợp với Liên đoàn Lao động Việt Nam để đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp có ít lao động… về thực hiện chế độ BHXH cho người lao động. Tránh tình trạng các doanh nghiệp cố tình không thực hiện nghĩa vụ hoặc chây ì trong việc đóng BHXH cho người lao động. BHXH cũng cần phối hợp với Sở kế hoạch đầu tư các tỉnh thành phố để nắm bắt được kịp thời các doanh nghiệp mới được thành lập trên địa bàn quản lý nhằm sớm đưa vào đối tượng quản lý thu để giảm thiểu việc trốn đóng BHXH, hạn chế tối đa những doanh nghiệp “ma” chỉ đăng ký nhưng không hoạt động. BHXH Việt Nam cũng cần phối hợp với các cơ quan thuế các cấp để loại bỏ tình trạng một chủ doanh nghiệp ký 2 hoặc 3 hợp đồng lao động với cùng một lao động với các mức tiền công, tiền lương

khác nhau để trốn đóng BHXH cho người lao động. Nếu giữa BHXH Việt Nam và cơ quan thuế xây dựng được một quy chế phối hợp trong việc cùng tổ chức thu BHXH thì hiệu quả công tác thu BHXH sẽ cao hơn rất nhiều.

+) Ngoài ra, BHXH Việt Nam cũng cần phối hợp với các tổ chức tín dụng, với ngân hàng và Toà án các cấp để khi có tình trạng trốn đóng BHXH xảy ra làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ. Việc xử lý trốn đóng BHXH của NSDLĐ cần đảm bảo kịp thời, đủ sức răn đe. BHXH cần xây dựng quy chế phối hợp với hệ thống các ngân hàng để phong toả tài khoản của các các đơn vị, tổ chức xác định là đã trốn đóng BHXH. BHXH Việt Nam cũng cần thiết cung cấp thông tin đầy đủ, phối hợp với Toà án các cấp có thẩm quyền để thụ lý các vụ án chiếm dụng quỹ BHXH nhằm rút ngắn thời gian tố tụng, nhanh chóng trả lại quyền lợi cho NLĐ.

+) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chế tài để xử lý các doanh nghiệp nợ đọng hoặc trốn tránh đóng BHXH cho NLĐ. Kể từ khi Bộ luật Hình sự (sửa đổi) chính thức có hiệu lực từ ngày 01-01- 2018 và có đầy đủ văn bản hướng dẫn, BHXH Việt Nam sẽ chuyển hồ sơ các doanh nghiệp cố tình nợ đọng, trốn đóng BHXH của NLĐ sang cơ quan Cảnh sát điều tra để xử lý hình sự để xử lý hình sự các doanh nghiệp, đối tượng cố tình chây ì, trốn đóng BHXH nhằm xử lý dứt điểm tình trạng đã kéo dài nhiều năm qua ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của NLĐ.

4.3.2. Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn tài chính


Hoàn thiện chính sách sử dụng nguồn tài chính BHXH chính là quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ tài chính để thực hiện việc chi tiền từ quỹ BHXH nhằm đảm bảo quyền lợi của NLĐ, quyền lợi đó tương xứng với nghĩa vụ đóng góp của họ. Cơ chế chi trả BHXH còn gắn với công tác quản lý chi nhằm chi đúng đối tượng, chi đủ số lượng, đảm bảo thời gian, không để thất thoát và có hiệu quả cao. Để thực hiện được tốt nội dung này cần phải thực hiện theo những giải pháp như sau:

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 21/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí