Hoàn Thiện Chính Sách Đầu Tư Tăng Trưởng Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội

4.3.2.1. Nhóm giải pháp về chính sách


Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mức hưởng BHXH của người lao động cho phù hợp với điều kiện KT - XH của Việt Nam và thông lệ quốc tế

Mức chi trả trợ cấp BHXH phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người tham gia BHXH. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, xuyên suốt toàn bộ các chính sách, chế độ trợ cấp cho NLĐ vì mục đích của BHXH là nhằm ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ. Vì vậy, mức chi trợ cấp BHXH phải đảm bảo mức sống tối thiểu cơ bản cho NLĐ, mức trợ cấp quá thấp thì BHXH không còn ý nghĩa “đảm bảo” nữa. Nếu mức trợ cấp BHXH quá cao vượt khả năng chi trả của quỹ sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng chi của quỹ, mất cân đối quỹ, quỹ BHXH sẽ dần dần đến phá sản. Nguyên tắc này đã được quy định cụ thể tại Công ước 102 của ILO, mức phổ biến bằng 40%-50% tiền lương hoặc tiền công làm cơ sở tính BHXH. Nguyên tắc này đã được hầu hết các nước thành viên của ILO áp dụng cụ thể vào nước mình.

Đối với nước ta, áp dụng nguyên tắc này là nhằm khuyến khích những người đang làm việc, phân biệt mức hưởng thụ rõ ràng giữa người làm việc với người nghỉ hưu hoặc ốm đau, tai nạn... Đây là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc phân phối nói chung đó là thể hiện sự công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ. Tuy nhiên, do tiền lương của nước ta còn thấp, nếu vận dụng mức hưởng bằng 40% hoặc 50% như quy định tại Công ước 102 của tổ chức ILO thì không đảm bảo mức sống tối thiểu cho NLĐ. Vì thế, khi tình hình KT – XH nước ta ngày càng ổn định và phát triển, đời nước NLĐ ngày càng được nâng cao thì cần phải điều chỉnh tỷ lệ trợ cấp các chế độ BHXH tiệm cận mức như quy định tại Công ước 102 để đảm bảo sự cân đối lâu dài của quỹ BHXH.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế quản lý chi trả các chế độ BHXH để đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi kịp thời, đảm bảo an toàn và hiệu quả

- Chi đúng đối tượng: Đối tượng có tham gia đóng BHXH thì mới được hưởng các chế độ BHXH. Thực hiện việc chi đúng cho đối tượng cũng là thực hiện sự công bằng trong hưởng thụ các chế độ BHXH nhằm loại trừ các trường

hợp giả mạo hồ sơ, giấy tờ để được hưởng các chế độ BHXH. Nếu như trước đây, việc giả mạo hồ sơ giấy tờ chủ yếu để được hưởng chế độ hưu trí (hưu dởm) thì hiện nay hiện tượng đó lại xuất hiện cả trong chi trả chế độ ốm đau, đặc biệt là khu vực sản xuất vật chất thiếu việc làm. Vì vậy, cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính BHXH sao cho bằng các công cụ quản lý hữu hiệu để đảm bảo chi đúng đối tượng được hưởng các chế độ BHXH.

- Chi đủ số lượng: Các đối tượng tham gia đóng BHXH nhiều thì được hưởng mức cao, đóng ít thì được hưởng mức thấp, tỷ lệ thương tật cao thì phải được hưởng mức trợ cấp cao và ngược lại. Khi đã xác định đúng tỷ lệ trợ cấp phải tổ chức chi trả đủ số lượng. Để thực hiện được nguyên tắc này đòi hỏi công tác quản lý phải được tổ chức đồng bộ từ khâu xác định chính xác tỷ lệ thương tật, bệnh tật đến khâu xét duyệt hồ sơ được hưởng các chế độ BHXH và cuối cùng là khâu tổ chức chi trả. Công tác quản lý ở từng khâu không tốt sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đối tượng. Điều khó khăn lớn nhất cho công tác xét duyệt trợ cấp của ngành BHXH là việc xác định tỷ lệ thương tật, xác định đúng bệnh tật của đối tượng lại do ngành y tế đảm nhiệm. Nếu không có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngành BHXH Việt Nam và ngành Y tế thì rất có thể xảy ra các hiện tượng tiêu cực. Xác dịnh không chính xác tỷ lệ thương tật thì ảnh hưởng đến quyền lợi đối tượng và tài chính của quỹ BHXH. Vì vậy phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngành Y tế và ngành BHXH Việt nam trong việc xác định tỷ lệ thương tật, khám chữa bệnh cho đối tượng. Chủ quản ngành BHXH Việt Nam cũng phải không ngừng hoàn thiện các biện pháp quản lý công tác chi trả như: quy trình chi trả hợp lý, chứng từ sổ sách kế toán đặc biệt là bộ chứng từ gốc để thanh toán các chế độ bảo hiểm.

- Chi trả kịp thời: Khi thực hiên chi trả kịp thời các chế độ BHXH sẽ nhằm giảm bớt khó khăn, đảm bảo ổn định cuộc sống cho đối tượng tham gia BHXH. Vì thế, BHXH Việt Nam phải quy định rõ ràng thời gian chi trả và tổ chức thực hiện chi trả đúng thời gian đó. Ví dụ: đối với các chế độ chi trả hàng tháng thì thời gian để chi trả đến tay đối tượng hợp lý nhất là thực hiện vào đầu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

tháng. Còn các chế độ ốm đau, thai sản nên quy định số ngày cụ thể từ khi nhận đủ giấy tờ, hồ sơ hợp lệ đến khi phải tổ chức chi trả đến tay đối tượng... Trên cơ sở quy định thời gian đó, BHXH Việt Nam tổ chức các hình thức chi trả kịp thời, thuận lợi không gây phiền hà cho đối tượng.

- An toàn, hiệu quả: Thực hiện các chế độ chi BHXH an toàn, hiệu quả là một trong những yêu cầu cần thiết được đặt ra đối ngành BHXH Việt Nam hiện nay nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thất thoát, mất mát tiền của người thụ hưởng nhưng đồng thời cũng giảm được chi phí, tiết kiệm cho quỹ BHXH. Để đảm bảo an toàn và có hiệu quả cho công tác chi trả thì ngành BHXH Việt Nam phải nghiên cứu đổi mới hình thức chi trả, sử dụng mô hình chi trả thuận lợi nhất, an toàn, rẻ tiền và hiệu quả cao, bố trí các trang thiết bị, phương tiện cần thiết phục vụ cho công tác chi trả các chế độ BHXH.

Hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 21

4.3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện


Trên cơ sở các giải pháp về chính sách đã nêu ra ở trên thì nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện sử dụng nguồn tài chính BHXH Việt Nam như sau:

- Đối với việc thực hiện các chế độ hưu trí và tử tuất:

+) Tiến hành kiểm tra, rà soát lại toàn bộ hồ sơ đối với các đối tượng đang hưởng BHXH đến trước thời điểm ngày 01-01-1995. Đối với những đối tượng còn thiếu hồ sơ thì bổ sung cho hoàn chỉnh, đối với những hồ sơ có sai sót thì phải kiên quyết xử lý cắt giảm hoặc cắt hẳn. Nếu phát hiện những hành vi gian lận nghiêm trọng thì phải chuyển sang cơ quan có thẩm quyền để xử lý.

+) Với các đối tượng mới phát sinh, phải thực hiện đúng quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ theo ba cấp. Đơn vị sử dụng lao động chỉ ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động, cung cấp hồ sơ có liên quan của NLĐ. BHXH cấp tỉnh, thành phố kiểm tra, xác minh chế độ và mức được hưởng để ra quyết định hưởng cho NLĐ. Định kỳ hàng tháng, BHXH Việt Nam tổ chức thẩm định, nếu có sai sót thì BHXH cấp tỉnh, thành phố phải có trách nhiệm thu hồi, nếu không thu hồi được thì phải có trách nhiệm bồi thường cho công quỹ.

+) Cần có sư phối hợp chặt chẽ giữa BHXH các huyện trong tỉnh, giữa BHXH các tỉnh với BHXH Việt Nam trong việc quản lý sự biến động của NLĐ trong việc di chuyển địa điểm làm việc, do tử vong, do hết thời gian hưởng BHXH… Kịp thời điều chỉnh tăng, giảm và lập danh sách chi trả hàng tháng để làm căn cứ chi BHXH.

+) Tăng cường công tác quản lý tiền mặt trong tất cả các công đoạn: Giao nhận ở kho bạc, ngân hàng, trên đường vận chuyển đến các phường xã, tổ dân phố trong quá trình tổ chức chi trả lương hưu. Phải bố trí lực lượng bảo vệ và phương tiện vận chuyển tiền. Thực hiện thanh toán ngay trong ngày đối với hình thức chi trả trực tiếp và không quá 3 ngày đối với hình thức chi trả gián tiếp thông qua các đại lý, qua bưu điện hay qua UBND xã, phường. Thường xuyên kiểm tra định kỳ và đột xuất tồn quỹ tiền mặt ở các đại lý và ở BHXH cấp huyện hay cấp tỉnh.

- Đối với việc thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, nghỉ dưỡng sức:

+) Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức y tế, bệnh viện, tổ chức công đoàn ở các đơn vị để kiểm tra, giám sát việc cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm, nghỉ thai sản và nghỉ dưỡng sức nhằm khắc phục triệt để hiện tượng làm giả hồ sơ, khai khống thời gian nghỉ nhằm rút tiền từ quỹ BHXH không đúng chế độ.

+) Phối hợp với cơ quan thanh tra, kiểm toán, tài chính, kho bạc… để kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ BHXH và chi BHXH cho NLĐ tại đơn vị sử dụng lao động cho BHXH tỉnh, BHXH huyện uỷ quyền chi trả hộ.

+) BHXH tỉnh và BHXH huyện không được sử dụng tiền do BHXH Việt nam cấp chi BHXH để chi vào bất cứ nội dung công việc gì khác, mà chỉ được phép dùng để chi trả các chế độ BHXH và chuyển tiền bằng hình thức chuyển khoản cho đơn vị sử dụng lao động để chi trả hộ. Nghiêm cấm việc chi bằng tiền mặt cho đại diện của NSDLĐ lĩnh hộ NLĐ, sau đó về tổ chức chi trả ở đơn vị. Thực hiện chi trả trực tiếp cho NLĐ ở các đơn vị sử dụng lao động thông qua tài khoản cá nhân (nếu có).

+) Quản lý chặt chẽ, khoa học các biến động về tăng, giảm đối tượng hưởng trợ cấp BHXH. Đối với các biến động tăng thì phải cập nhật hàng tháng tại cơ quan BHXH. Đối với các biến động giảm thì phải từ cơ sở báo lên. Riêng đối với đối tượng hưởng trợ cấp mất sức lao động, cần phải quản lý chặt chẽ các biến động tăng, giảm của nhóm đối tượng này bởi vì nhóm đối tượng này chị thành nhiều loại: dài hạn, có thời hạn hoặc tiếp tục được hưởng theo quy định. Muốn vậy, phải rà soát hồ sơ, phân loại danh sách đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng theo thời gian ngừng trợ cấp. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch cắt, giảm và thông báo hàng quý cho những người sắp hết hạn hưởng chế độ biết và thông báo hàng năm đối với trẻ em hưởng tuất đủ 15 tuổi trở lên đang đi học về thời gian hưởng còn lại trước khi cắt chế độ.

Hơn nữa, ngành BHXH Việt Nam cần tiếp tục đổi mới phương thức chi trả các chế độ BHXH, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHXH khi nhận trợ cấp nhằm khuyến khích NLĐ tham gia BHXH tự nguyện. Cần mở rộng hơn nữa các hình thức chi trả BHXH.

+) Đối với hình thức chi trả trực tiếp, chỉ nên áp dụng ở một số địa phương có điều kiện thuận lợi như địa bàn dân cư tập trung, đối tượng nhiều, số tiền chi trả lớn.

+) Đối với hình thức chi trả gián tiếp: Bên cạnh các hình thức chi trả đang được áp dụng hiện nay như tổ chức chi trả thông qua các đại lý, các tổ chức chi trả cấp xã, phường, thông qua tài khoản cá nhân ở ngân hàng hay thông qua bưu điện. Tuy nhiên, việc chi trả qua tài khoản ngân hàng mới chỉ được áp dụng ở các thành phố nơi có hệ thống ngân hàng phát triển với nhiều điểm giao dịch. Trong thời gian tới, BHXH nên sử dụng rộng rãi hình thức chi trả này để tiết kiệm chi phí và rất nhanh chóng. Để thực hiện tốt điều này cần có sự hỗ trợ, phối hợp tốt giữa BHXH với các ngân hàng, kho bạc, bưu điện các địa phương và vận động tất các đối tượng hưởng chế độ mở tài khoản cá nhân ở ngân hàng.

+) Ngoài hai hình thức chi trả trên, BHXH Việt Nam nên tập trung chỉ đạo BHXH các tỉnh thực hiện phương thức chi trả theo hình thức phối hợp giữa cá huyện và xã. Hàng tháng, BHXH các huyện xây dựng lịch chi trả cho các xã và thông báo cho các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH. Căn cứ vào lịch chi trả này cơ quan BHXH trực tiếp mang tiền, danh sách chi trả xuống cơ sở và phối hợp với ban đại diện chi trả cấp xã, phường để tiến hành chi trả tiền theo lịch. Đối với những đối tượng hưởng BHXH vắng mặt chưa đến nhận thì giao cho ban đại diện tiếp tục chi trả rồi làm thủ tục để kịp thời thanh toán với BHXH cấp huyện vào thời gian trong tháng hoặc kỳ lương sau. Theo cách thức này chỉ trong ít ngày sẽ chi trả xong toàn huyện. Công tác thanh toán, báo cáo giữa xã và huyện được tiến hành nhanh gọn hơn, giúp cho việc tổng hợp báo cáo quyết toán của BHXH huyện, tỉnh đảm bảo chất lượng và đúng thời gian quy định, góp phần giảm bớt chi phí quản lý quỹ BHXH.

4.3.3. Hoàn thiện chính sách đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội


Để hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao, góp phần tăng trưởng cho quỹ BHXH cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

4.3.3.1. Nhóm giải pháp về chính sách


Một là, cần phân định rõ ràng nguồn vốn đầu tư:


Phân định nguồn vốn đầu tư là việc phân chia nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH theo tính chất nhàn rỗi để từ đó có quyết định sử dụng từng nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực một cách phù hợp.

Việc phân định nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH thành các loại khác nhau là một việc làm cần thiết bởi trong cơ cấu đầu tư của quỹ BHXH luôn hiện diện những khoản đầu tư có đặc điểm khác nhau. Sự phân định đúng đắn nguồn vốn nhàn rỗi sẽ làm cho việc đầu tư vốn vào từng tài sản có sự phù hợp với đặc điểm của nguồn vốn đầu tư, từ đó góp phần đảm bảo tính thanh khoản của hoạt động đầu tư.

Ở Việt Nam, việc xác định nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH từ trước

đến nay vẫn được thực hiện trên cơ sở tính toán số chênh lệch thu chi BHXH hàng năm, chưa có sự phân định rõ ràng các nguồn vốn dùng để đầu tư. Điều này trước mắt có thể chưa ảnh hưởng nghiêm trọng lắm đến sự an toàn của quỹ bởi nhu cầu thanh toán chi trả của BHXH Việt Nam thời gian qua là chưa lớn. Tuy nhiên, trong tương lai khi mà nhu cầu thanh toán chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH tăng lên thì nguy cơ mất khả năng thanh toán thường xuyên của quỹ hoàn toàn có thể xảy ra bởi việc đầu tư của quỹ BHXH vào các tài sản đã không dựa trên những tính toán, phân tích cụ thể về nguồn vốn đầu tư. Do đó, để đảm bảo sự an toàn và khả năng thanh toán thường xuyên của quỹ BHXH, cần phải có sự phân định rõ ràng nguồn vốn đầu tư.

Hai là, đa dạng hoá danh mục đầu tư

Danh mục đầu tư là một tập hợp các tài sản, các dự án hoặc các lĩnh vực mà BHXH có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình để đầu tư.

Việc đầu tư theo danh mục giúp cho BHXH phân tán được rủi ro, tăng khả năng bảo toàn đồng vốn trong hoạt động đầu tư. Đa dạng hoá danh mục đầu tư sẽ giúp cho ngành BHXH Việt Nam có thêm nhiều cơ hội lựa chọn tài sản hoặc dự án để đầu tư. Theo chế độ hiện nay thì danh mục đầu tư của BHXH Việt Nam còn rất đơn điệu, khả năng lựa chọn của BHXH Việt Nam trong việc đầu tư vốn nhàn rỗi là rất hạn chế, do vậy cơ hội sử dụng vốn để đầu tư thu lợi cũng không nhiều.

Ba là, quy định cụ thể hạn mức đầu tư đối với từng danh mục


Hạn mức đầu tư là chỉ số vốn tối đa mà quỹ BHXH có thể sử dụng để đầu tư vào một tài sản, một dự án hay một danh mục nào đó. Hạn mức này có thể được quy định bằng một số tuyệt đối hoặc một số tương đối.

Việc quy định hạn mức đầu tư vào từng danh mục là nhằm hạn chế những tổn thất về vốn có thể xảy ra khi BHXH gặp phải những rủi ro trong đầu tư, theo phương châm "không để toàn bộ trứng vào cùng một giỏ".

Bốn là, phân cấp cụ thể thẩm quyền quyết định đầu tư

Phân cấp quyết định đầu tư là việc xác định thẩm quyền của các cấp quản lý quỹ BHXH trong việc ra quyết định đầu tư quỹ BHXH cũng như trách nhiệm của họ đối với kết quả của hoạt động đầu tư. Thực chất của phân cấp quyết định đầu tư là việc giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp quản lý quỹ BHXH, trong đó vấn đề cốt yếu là từng cấp cụ thể được phép ra quyết định đầu tư đối với những lĩnh vực, dự án nào.

Phân cấp quyết định đầu tư quỹ BHXH là một việc làm cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của quỹ BHXH. Một mặt, việc phân cấp sẽ là điều kiện đảm bảo tính pháp lý của các quyết định đầu tư vốn nhàn rỗi; mặt khác, nó sẽ đảm bảo tính chủ động linh hoạt của quỹ BHXH trong việc thực hiện các biện pháp đầu tư, tránh được tình trạng bỏ lỡ các cơ hội đầu tư do có sự chậm trễ trong việc ra quyết định.

Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy, song việc phân cấp quyết định đầu tư hiện nay vẫn chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về BHXH đã làm cho BHXH Việt Nam rất lúng túng và bị động trong hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi. Vì vậy, nghiên cứu sinh cho rằng cần phải có sự phân cấp cụ thể về thẩm quyền ra quyết định đầu tư để nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH.

Năm là, ban hành chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH

Quỹ BHXH là một quỹ hoạt động vì các mục tiêu xã hội. Hoạt động đầu tư của quỹ trước hết cũng là phục vụ cho mục tiêu thực hiện các chức năng nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho quỹ. Không giống với các quỹ có tính chất kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư của quỹ luôn hướng tới mục tiêu vì lợi ích của người lao động, của Nhà nước và của toàn xã hội. Do vậy việc tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư của quỹ cũng chính là tạo điều kiện để quỹ thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình đối với người lao động, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội. Xuất phát từ những lý do trên, việc ban hành các chính sách khuyến khích và ưu đãi đối

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 21/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí