Đánh Giá Việc Vận Dụng Basel Trong Việc Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Nhtm Trên Địa Bàn Tỉnh Đồng Nai


Còn các NHTM khác như Sacombank, ACB, Eximbank khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên qua báo cáo tổng kết thì tỷ lệ nợ quá hạn ở các ngân hàng này rất thấp vì họ kiểm soát rủi ro tín dụng tốt. Các ngân hàng này chính sách quản lý rủi ro tín dụng mang đậm tính chất quản lý rủi ro. Thường chính sách tín dụng được xây dựng trong từng thời kỳ, có thể thay đổi trong vòng 3 tháng, 6 tháng, 1 năm tùy thuộc vào diễn biến của thị trường tài chính.

Vì vậy chính sách QLRRTD không mang tính cứng nhắc mà rất linh động và phù hợp với điều kiện kinh tế. Chính sách tín dụng là nội dung sống còn và là kim chỉ nam trong hoạt động cho vay của các ngân hàng này. Trong chính sách tín dụng sẽ hướng dẫn hướng dẫn cách xếp loại khách hàng theo các tiêu chí như nghành nghề kinh doanh, nguồn thu nhập để trả nợ vay, chu kỳ gửi các báo cáo tài chính, vị trí địa lý, thời gian quan hệ với ngân hàng, kỳ hạn vay và loại tiền vay, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo, có phát sinh nợ nhóm 2 và nợ nhóm 3 của tổ chức tín dụng theo thông tin CIC.

Qua việc xây dựng chính sách tín dụng, các ngân hàng đã nhận diện và phân loại rủi ro trong giai đoạn đầu và có thể hạn chế hoặc kiểm soát cho vay đối với một số ngành nghề như nông lâm ngư nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng các công trình có vốn ngân sách nhà nước.

Các ngân hàng trong quá trình cho vay thường kiểm tra mục đích sử dụng vốn của khách hàng có phù hợp với phương án vay hay không. Khi phát hiện khoản vay có vấn đề và khách hàng thường xuyên trả nợ không đúng hạn thì các ngân hàng này thường áp dụng các biện pháp thu hồi nợ trước hạn và có thể xử lý tài sản đảm bảo nếu khách hàng không đủ khả năng trả nơ.

* Thực trạng QLRRTD tại các NHTM còn tồn tại các vấn đề như sau

- Quản trị danh mục cho vay của NHTM tỉnh ĐN chưa được chú trọng đa dạng hóa Cần chú trọng đa dạng hóa danh mục cho vay của từng ngân hàng khi các ngân hàng này theo đuổi chiến lược phát triển tín dụng phù hợp với thị trường mục tiêu. Các doanh nghiệp thuộc cùng ngành, cùng quy mô, vùng lãnh thổ…có thể có tương


quan rủi ro tín dụng cao. Rủi ro tín dụng xảy đến cùng lúc với nhiều khách hàng là một việc ngân hàng cần hết sức tránh. Quản trị danh mục cho vay cần chỉ ra được với tỷ suất sinh lời chấp nhận được thì tỷ trọng đầu tư tối ưu vào mỗi ngành, vùng, quy mô..để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu.

- Các NHTM chưa xây dựng được mô hình lượng hóa rủi ro và xác định mức độ cho vay tối đa, tối ưu đối với khách hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Các ngân hàng phần lớn chưa xây dựng cho mình một mô hình thích hợp để lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định được phần bù và giới hạn tín dụng an toàn tối đa hoặc trích lập dự phòng rủi ro. Hiện nay, đo lường rủi ro tín dụng ở Việt Nam khó khăn, thông tin kém chính xác. Thông tin đầu vào rất cần thiết áp dụng trong việc ra quyết định của ngân hàng chưa được lưu trữ, thu thập và xử lý hiệu quả. Thông tin của các khách hàng đôi khi phải lấy từ các nguồn phi chính thức

- Các ngân hàng khi cho vay còn chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp mà ít xem xét đến các nguồn trả nợ khác.

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai - 9

Nhân viên tín dụng cần nhớ rằng các khoản vay cần được trả bằng dòng tiền tạo ra bởi dự án sản xuất kinh doanh hoặc các nguồn thu nhập khác chứ không dựa vào tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến mà thôi.

-Danh mục cho vay hiện tại của các NHTM tiềm ẩn mức độ rủi ro rất cao đặc biệt là đối với NHTM quốc doanh

Danh mục cho vay hiện tại của một số ngân hàng đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao vì nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ lệ cao trong tổng tài sản trong khi nguồn vốn của NH chủ yếu là ngắn hạn. Tín dụng tập trung nhiều cho cho các doanh nghiệp nhà nước, có mối quan hệ hoặc hoạt động không hiệu quả. Số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng tín dụng cho khu vực kinh tế nhà nước thời gian qua tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.

*Về mặt thực hiện các chính sách và quy trình tín dụng

-Các ngân hàng muốn hạn chế rủi ro tín dụng thì cần phải xây dựng cho mình một chính sách và quy trình phù hợp. Tuy nhiên hầu hết các ngân hàng đều chưa xây


dựng cho mình một chính sách tín dụng khoa học, phù hợp. Ngoài các hướng dẫn quy chế cho vay của NHNN, hầu hết các NHTM đều chứa có chính sách tín dụng đầy đủ, bằng văn bản của riêng mình mà chỉ là những chỉ đạo rời rạc, không hệ thống, mang tính hệ thống và dường như chưa lượng hóa được các rủi ro. Một chính sách tín dụng được hoạch định tốt phù hợp với quy luật khách quan là điều kiện tốt để quản lý RRTD được tốt. Chính sách tín dụng phải thể hiện quan điểm và chiến lược của ngân hàng trên cơ sở cho vay của ngân hàng nhà nước.

* Về mặt kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn

Hiện nay, vấn đề kiểm tra mục đích sử dụng vốn còn chưa triệt để và chặt chẽ vì một khi khách hàng vay giải ngân xong khách hàng phải bổ sung chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích mà nhân viên tín dụng vẫn tiếp tục đề xuất cho giải ngân vì áp lực doanh số và dư nợ. Vì vậy, việc kiểm tra và giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để kiểm soát rủi ro tín dụng. Và khi phát hiện ra khoản vay có dấu hiệu bất ổn thì ngân hàng mới có thể xử lý kịp thời. Tuy nhiên, nhân viên tín dụng hiện nay thường không xem trọng quá trình kiểm tra mục đích sử dụng vốn và bổ sung chứng từ vì áp lực tăng doanh số và dư nợ nên vấn đề giám sát quá trình sử dụng vốn cò chưa chặt chẽ và triệt để

2.4.2 Đánh giá việc vận dụng Basel trong việc quản lý rủi ro tín dụng của NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

NHTM trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã và đang cố gắng áp dụng chuẩn mực quốc tế vào công tác quản lý rủi ro nói chung và QLRRTD nói riêng. Một số ngân hàng thương mại lớn như Sacombank, ACB, Eximbank… đều có chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, sổ tay tín dụng trong đó đều đề cập trực tiếp đến QLRRTD bao gồm từ giai đoạn xét duyệt cho vay tới quản lý khoản vay, phân cấp quản lý bộ máy tín dụng, tách biệt chức năng giám sát tín dụng độc lập so với các bộ phận khác.

Ngoài ra các ngân hàng cũng xây dựng cho mình một hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, hướng đến sẽ xây dựng một hệ thống theo chuẩn mực quốc tế.


Vấn đề yếu kém cơ bản của các NHTM trong việc quản lý rủi ro tín dụng là đảm bảo an toàn vốn. Theo thông tư số 13/2010/TT-NHNN của ngân hàng nhà nước yêu cầu các NHTM phải duy trì hệ số an toàn vốn ở mức tối thiểu 9% và đây là yêu cầu cơ bản của Basel I. Hiện nay, trong các thông tin công bố trong các báo cáo thường niên, trên các Website của các NHTM chưa thấy công bố thông tin này dù các NHTM vẫn thường xuyên tăng vốn tự có trong các năm gần đây. Điều đó cho chúng ta thấy các NHTM đã cố gắng nhiều trong việc nâng cao mức độ đảm bảo an toàn vốn.

Một số ngân hàng lớn như ACB, Vietcombank, Vietinbank, Eximbank.. có công bố tỷ lệ an toàn vốn còn phần lớn các NHTMCP nhỏ thì không công bố thông tin này.Nhóm các ngân hàng thương mại lớn tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đạt được theo yêu cầu của ngân hàng nhà nước nhưng vẫn chưa đạt được mức 12% như các nước trên thế giới đang áp dụng.

Theo Basel, trong công tác quản lý rủi ro tín dụng thì các ngân hàng phải kết hợp quản lý rủi ro tín dụng với quản lý rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động.

2.5.Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.‌

2.5.1 Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn

2.5.1.1 Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích

Sử dụng vốn vay đúng mục đích là nguyên tắc quan trọng khi vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế khách hàng đã không dùng tiền vay đúng mục đích đó. Trường hợp này rất phổ biến đối với các món vay bị nợ quá hạn và không có khả năng trả nợ. Rủi ro trên có thể khắc phục được nếu cán bộ tín dụng có sự kiểm tra, kiểm soát sau cho vay, phát hiện kịp thời để thu hồi nợ. Trên thực tế, khách hàng sử dụng vốn sai mục đích chủ yếu do dùng vốn vay để đầu tư vào bất động sản, đầu tư vào chứng khoán hoặc khách hàng vay đầu tư với thời hạn vay không phù hợp với khả năng khấu hao dẫn đến khách hàng phải dùng nguồn vốn ngắn hạn để bổ sung cho vốn trung dài hạn.


2.5.1.2 Khách hàng cố tình né tránh trong việc thanh toán nợ vay

Phần lớn các trường hợp xảy ra nợ xấu, nợ quá hạn thì nguyên nhân xuất phát từ phía khách hàng do không có ý thức trong việc thanh toán nợ là nguyên nhân chính. Hiện tượng cố tình né tránh trách nhiệm trả nợ khá phổ biến. Họ cho rằng nếu không thanh toán nợ đúng hạn thì họ chỉ phải trả thêm tiền lãi và do đó ngân hàng càng có nhiều lợi ích hơn, do đó họ cố tình né tránh. Bên cạnh đó tâm lý ỷ lại tài sản đảm bảo cũng khiến khách hàng không thực hiện trả nợ đúng hạn. Do đó, hiện nay rủi ro tín dụng xuất phát từ nguyên nhân trên chiếm rất phổ biến trong số các nguyên nhân từ phía khách hàng được đưa ra trong cuộc khảo sát.

Để hạn chế nguyên nhân này thì ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng đặc biệt là khách hàng cá nhân, cán bộ tín dụng cần giải thích rò quyền và trách nhiệm của họ khi ký hợp đồng vay vốn và phải giải thích để khách hàng hiểu được uy tín giao dịch tín dụng là quan trọng nhất chứ không phải là giá trị tài sản bảo đảm.

2.5.1.3 Khách hàng cố tình lừa đảo, qua mặt ngân hàng

Tình trạng lừa đảo tín dụng xuất hiện khá nhiều như lập doanh nghiệp “ma”, hợp đồng “khống”, dự án “ảo”, các hiện tượng “hụi họ”, “tín dụng đen” nhằm lừa đảo vốn ngân hàng hoặc lừa đảo chiếm dụng tiền, tài sản của khách hàng đang vay vốn tại ngân hàng, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng vay vốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Các hình thức lừa đảo bao gồm:

+ Lập doanh nghiệp “ma”: Các biểu hiện của doanh nghiệp “ma” đó là hiện tượng phổ biến nhiều cá nhân có quan hệ gia đình hoặc “móc nối” với nhau thành lập nhiều doanh nghiệp trên phạm vi rộng, không vì mục đích sản xuất kinh doanh trên giấy phép kinh doanh theo đăng ký với cơ quan có thẩm quyền mà để mua bán hóa đơn lòng vòng với nhau, dùng các hồ sơ như hợp đồng kinh tế, hóa đơn v.v để lập phương án vay vốn ngân hàng.

Loại hình doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ mang tính chất gia đình, tổ chức dưới hình thức công ty TNHH, DNTN …, đăng ký rất nhiều ngành nghề kinh doanh nhưng ngành nghề chủ yếu là dịch vụ, thương mại tổng hợp…


những ngành không phải đăng ký vốn pháp định, không phải ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Vốn điều lệ được khai lên đến hàng chục tỷ đồng song thực tế không có phương tiện, công cụ sản xuất kinh doanh hay tài sản cố định nào có giá trị, địa điểm kinh doanh thường là thuê của tư nhân cá thể với cơ sở vật chất chật hẹp, không ở nơi đông dân cư hay khu phố buôn bán sầm uất.

+ Làm giả hồ sơ thế chấp, lập dự án “ảo”, phương án “ma” để vay vốn. Hồ sơ thế chấp vay vốn Ngân hàng bị làm giả thường là hồ sơ thế chấp các tài sản liên quan đến nhà đất như:

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Giấy chứng nhân quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.

- Giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu.

- Giả chữ ký, con dấu của cơ quan phát hành các giấy tờ trên.

- Móc ngoặc với cơ quan công chứng để làm giả các giấy tờ như hợp đồng mua bán, hợp đồng ủy quyền thế chấp tài sản.

Các hành vi này thường xuất hiện ở các trường hợp cá nhân vay vốn mua nhà thông qua hợp đồng mua bán nhà giữa hai cá nhân; hợp đồng ủy quyền thế chấp tài sản, doanh nghiệp vay vốn thế chấp bằng nhà đất của bên thứ ba.

2.5.1.4 Năng lực quản lý, kinh doanh của khách hàng còn yếu kém

Năng lực quản lý điều hành hoạt đông kinh của khách hàng có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN, đồng thời còn có tác dụng rất lớn trong việc hỗ trợ ngân hàng nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng. Trong thực tế vấn đề này là một vấn đề nan giản và khó khăn đối với nhiều khách hàng. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch, quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn chưa tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực ghi chép đầy đủ, chính xác, rò ràng các sổ sách kế toán. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều


khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ tín dụng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc thẩm định tín dụng thiếu chính xác và là nguyên nhân cơ bản phát sinh rủi ro tín dụng .

2.5.2 Nguyên nhân từ phía ngân hàng‌

2.5.2.1 Ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng

Cán bộ tín dụng khi tiếp nhận và xử lý hồ sơ khách hàng đều dựa trên các nguồn thông tin khác nhau nhưng mức độ tin cậy không cao:

Thứ nhất :Thông tin do khách hàng cung cấp. Tuy nhiên, thông tin từ nguồn này là thông tin sơ cấp và không đáng tin cậy do khách hàng cố tình làm đẹp thông tin bằng các báo cáo tài chính và việc thực hiện công việc này thực sự không khó.

Thứ hai: Thông tin từ Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN ( CIC ). Đây là hệ thống thông tin phục vụ việc xếp hạng, thẩm định khách hàng được Ngân hàng Nhà nước cung cấp. Trung tâm tín dụng là tổ chức duy nhất thực hiện việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của các ngân hàng thương mại.

Thông tin CIC của NHNN ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung cấp các thông tin cảnh báo, nhưng những yêu cầu về thông tin của các ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng một cách đáng tin cậy, nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin về báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán nên độ chính xác của các báo cáo chưa cao. Mặt khác, đây là nguồn thông tin do NHNN cung cấp trong trường hợp các khách hàng đã có quan hệ tín dụng với các ngân hàng. Tuy nhiên thông tin CIC chỉ cho phép xem được thông tin quá khứ, mang tính chất tham khảo và chưa phân tích được sâu hơn tình trạng khách hàng về khả năng tài chính và kỹ năng quản lý cũng như tài sản bảo đảm. Thông tin CIC của NHNN cho biết được tình trạng nợ trong ba năm trở lại thời điểm tra cứu thông tin bao gồm tổng dư nợ tại thời điểm báo cáo trong đó dư nợ gắn hạn, trung dài hạn. CIC không chi tiết được dư nợ ngắn, trung dài hạn, mục đích vay vốn của khách hàng tại mỗi Ngân hàng. Bên cạnh đó những thông tin cần thiết để xác định độ tin cậy của ban quản trị hầu như không có. Do tính chính xác và


tính tức thời của thông tin chưa cao nên hầu hết khi thẩm định một khách hàng doanh nghiệp về xếp hạng tín dụng, tình hình tài chính thì ít khi cán bộ tín dụng sử dụng đến thông tin CIC.

Thứ ba: Thông tin từ hồ sơ lưu trữ tại Ngân hàng: loại thông tin này chỉ có trong trường hợp khách hàng đã từng có quan hệ tín dụng, có ưu điểm đã qua kiểm định thực tế. Tuy nhiên, nó cũng chỉ là loại thông tin quá khứ.

Thứ tư: Nguồn thông tin khác, như thông tin từ khách hàng, đối tác của của khách hàng vay vốn, các thông tin từ thị trường, và các kênh thông tin khác. Đặc điểm của loại thông tin này là cung cấp được tình trạng hiện tại và quá khứ của khách hàng. Tuy nhiên, việc khai thác các thông tin trên rất khó đối với một cán bộ tín dụng

Từ các nguồn thông tin có thể khai thác hiện nay, chưa có môi trường thông tin trong đó tính minh bạch, chính xác, rò ràng chi tiết của các thông tin cao, độ tin cậy của các cơ quan cung cấp tại Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Việc tìm kiếm thông tin chính xác là cực rất khó khăn và tình trạng thông tin bất cân xứng vẫn là một tồn tại chưa thể khắc phục. Việc hạn chế đối với thông tin của khách hàng là nguyên nhân dẫn đến thẩm định khách hàng sai, nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng

2.5.2.2. Áp lực cạnh tranh ngày càng cao giữa các NHTM

Các ngân hàng trên địa bàn cạnh tranh rất gay gắt trong việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tiện ích cho khách hàng . Trong đó cạnh tranh về huy động vốn và cho vay có áp lực cao nhất. Cạnh tranh có những điểm tích cực là làm cho các sản phẩm ngân hàng ngày càng hoàn thiện và tiện ích, thuận tiện cho khách hàng. Tuy nhiên, mặt hạn chế của cạnh tranh là các cán bộ tín dụng trong quá trình tìm kiếm, tiếp thị sản phẩm đã hạ bớt các tiêu chuẩn cấp tín dụng khi xem xét cho vay. Đối với những hồ sơ chưa đủ điều kiện vay nhưng do cạnh tranh gay gắt cán bộ tín dụng đã lách sang các hình thức khác hay hoàn thiện hồ sơ về mặt hình thức để đối phó với vấn đề kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Do đó, cạnh tranh trong việc lôi kéo khách hàng thông qua lách những hạn chế của hồ sơ bằng cách này hay cách khác hay hạ bớt tiêu chuẩn cấp tín dụng là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

2.5.2.3 Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng còn hạn chế

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí