vay một công trình, một dự án mà không thông qua đồng tài trợ, dẫn đến rủi ro trong hoàn trả nợ.
3.2.2. Giải pháp cụ thể trong từng ngân hàng thương mại
3.2.2.1 Giải pháp về nhân sự
Yếu tố con người luôn có vị trí quyết định trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong nhiều năm qua việc mở rộng mạng lưới của các ngân hàng thương mại đã tập trung đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn chưa cao. Các ngân hàng trên địa bàn tỉnh chưa chú trọng chất lượng nhân sự về chuyên môn cũng như đạo đức. Trong hoạt động ngân hàng, cán bộ tín dụng vừa là người trực tiếp chào bán các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng vừa là người trực tiếp quan hệ với khách hàng. Vì vậy, mối quan hệ giữa cán bộ tín dụng và khách hàng quyết định đến chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng.
Để hạn chế rủi ro tín dụng cần nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng bằng cách gắn trách nhiệm của cán bộ tín dụng đi cùng với quyền lợi, do cán bộ tín dụng luôn đối mặt với rủi ro nên phải có chế độ thưởng phạt rò ràng, cơ chế trả lương khác so với các bộ phận hỗ trợ khác như: kế toán, ngân quỹ để khuyến khích cán bộ tín dụng, tránh xảy ra rủi ro đạo đức nghề nghiệp.
Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng về trình độ và đạo đức bằng cách ngay từ khâu tuyển chọn. Cán bộ tín dụng phải có đạo đức, được đào tạo chính quy, đúng chuyên ngành, có khả năng nghiên cứu và tìm hiểu tài liệu. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng phải có hiểu biết về xã hội và có khả năng giao tiếp đó là cơ sở để tìm kiếm và giữ chân khách hàng nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng như hiện nay.
Thường xuyên cập nhập kiến thức mới cho cán bộ tín dụng bằng cách tổ chức các buổi thảo luận, mời các chuyên gia về pháp lý trao đổi kinh nghiệm các tình huống, vụ án liên quan đến lĩnh vực ngân hàng để cán bộ tín dụng có thêm kinh nghiệm, hiểu biết thêm về pháp luật, quyết định cho vay được an toàn.
Nâng cao chất lượng của cán bộ tín dụng đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng thẩm định hồ sơ tín dụng nhằm hạn chế những rủi ro tín dụng do trình độ yếu kém của cán bộ tín dụng gây ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Việc Vận Dụng Basel Trong Việc Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Nhtm Trên Địa Bàn Tỉnh Đồng Nai
- Thiếu Thông Tin Về Quy Hoạch Sử Dụng Đất Trên Địa Bàn
- Định Hướng Phát Triển Kinh Tế Tỉnh Đồng Nai Đến Năm 2020 Và Dự Báo Hoạt Động Ngân Hàng Trên Địa Bàn Tỉnh Đồng Nai
- Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai - 13
- Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
3.2.2.2 Hoàn chỉnh hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng
Chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng là đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của khách hàng như khả năng trả lãi và gốc khi đến hạn nhằm xác định rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng. Chấm điểm và xếp hạng tín dụng là một công cụ hiệu quả, mang tính khoa học trong quản trị rủi ro tín dụng
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại lớn đã xây dựng riêng cho ngân hàng mình một hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ. Tuy nhiên, các tiêu chí đưa ra làm cơ sở chấm điểm là do mỗi ngân hàng tự đưa ra nên chứa đựng yếu tố chủ quan. Kết quả là chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ chưa có nhiều đóng góp tích cực trong việc định lượng rủi ro tín dụng . Do đó, phải xây dựng hoàn thiện nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tiến tới xây dựng và hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, phải thực hiện xếp hạng tín dụng theo định kỳ và duy trì một cách liên tục để làm cơ sở trong xây dựng chính sách khách hàng
Thực tế hiện nay cho thấy các ngân hàng thương mại chưa đủ điều kiện để thực hiện chấm điểm tín dụng và xếp hạng tín dụng một cách khoa học và khách quan. Do đó, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện để thành lập một tổ chức chuyên nghiệp, chuyên thực hiện chấm điểm tín dụng và xếp hạng tín dụng khách hàng một cách độc lập để các ngân hàng thương mại sử dụng kết quả trên trong việc thẩm định và quyết định cho vay đồng thời sử dụng kết quả trên để tiến hành phân loại nợ. Cần hoàn thiện hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ là cơ sở để phân loại nợ theo điều 7 quyết định 493 /2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005. Thật vậy, hiện nay hầu hết các tổ chức tín dụng tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo theo “tuổi nợ”, chỉ có một số ít ngân hàng sử dụng kết quả chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ để phân loại nợ, xác định mức độ rủi ro của các
khoản tín dụng. Do đó, hoàn thiện hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ là trọng tâm trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.2.3 Giải pháp về bảo đảm tín dụng
Một trong những biện pháp để bảo đảm an toàn và hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra là tăng cường cho vay có bảo đảm, đây chính là nguồn thu hồi nợ thứ cấp sau cùng. Tuy nhiên, việc xác định giá trị tài sản bảo đảm phải có cơ sở thực tế và tài sản bảo đảm phải thuộc sở hữu hợp pháp của người vay hoặc người bảo lãnh được pháp luật cho phép chuyển nhượng và phải có thị trường chuyển nhượng.
Do đó, phải trả lời được các câu hỏi sau khi nhận tài sản thế chấp, bảo lãnh đó là: Trên thị trường hiện tại có tài sản đó không? Tài sản có thể bán dễ dàng được không? Chi phí cho việc bán tài sản thế nào?. Định giá lại giá trị tài sản bảo đảm khi giá trị tài sản tại thời điểm định giá biến động giảm so với giá thị trường đồng thời thu thập thông tin về tài sản bảo đảm cùng loại qua thị trường và qua trung tâm bán đấu giá để có cơ sở trong việc định giá tài sản. Phải xem xét đến tính pháp lý của tài sản cũng như tính thanh khoản của tài sản khi nhận tài sản làm bảo đảm tiền vay. Ngoài ra, đối với những tài sản có giá trị cao, có tính phức tạp cần thiết phải thuê chuyên gia để đánh giá tài sản bảo đảm. Để tài sản bảo đảm phát huy ý nghĩa trong việc hạn chế rủi ro tín dụng, điều quan trọng nhất là xác định được mức cho vay tối đa đối với từng loại tài sản bảo đảm và hạn chế cho vay bằng mức cho vay tối đa đối với tài sản bảo đảm.
Đối với tài sản bảo đảm là máy móc thiết bị phải kiểm tra chặt chẽ tài sản đảm bảo trong suốt thời gian bảo đảm tiền vay tại ngân hàng và phải cân nhắc khi định giá tài sản là máy móc thiết bị theo giá thị trường đồng thời hạn chế tối đa cho vay bằng mức cho vay tối đa đối với loại tài sản bảo đảm này
Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, ngân hàng trên địa bàn tỉnh không nên định giá theo giá thị trường đặc biệt là quyền sử dụng đất nông nghiệp hoặc quyền sử dụng đất chưa biết rò quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Bên cạnh đó, khi lập hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba thì cơ sở pháp lý là điều kiện quan trọng để hạn chế rủi ro tín dụng. Nếu cơ sở pháp lý của hồ sơ tài sản bảo
đảm cũng như hồ sơ khoản vay chặt chẽ, không cho vay bằng mức cho vay tối đa đối với tài sản bảo đảm thì việc thu hồi nợ từ phát mãi tài sản bảo đảm có tính khả thi cao và ngược lại.
3.2.2.4 Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng nội bộ, tăng cường hợp tác và trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thương mại
Việc hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng rất quan trọng trong việc tìm kiếm thông tin và thẩm định khách hàng. Các ngân hàng nên có hệ thống quản lý thông tin riêng. Xây dựng và quản lý thông tin phải khoa học bảo đảm số lượng thông tin được lưu trữ, có thể chiết xuất kịp thời.
Hiện nay các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh chưa có sự hợp tác trao đổi thông tin với nhau đặc biệt là thông tin về khách hàng vay vốn có nợ quá hạn, nợ xấu, nợ xử lý rủi ro. Các ngân hàng thương mại còn giấu thông tin về nợ quá hạn, tạo mọi điều kiện để khách hàng đi vay ngân hàng khác để trả nợ ngân hàng mình.
Do đó, để hạn chế rủi ro tín dụng thì phải có sự phối hợp giữa các ngân hàng trong việc chia sẻ thông tin về nhóm nợ của khách hàng. Sự hợp tác giữa các ngân hàng thương mại nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể và có giới hạn. Do đó, nếu thiếu trao đổi thông tin dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho một khách hàng vay đến mức vượt giới hạn trả nợ của khách hàng thì rủi ro tín dụng có thể xảy ra đối với các ngân hàng cấp tín dụng.
3.2.2.5 Xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản trị rủi ro tín dụng
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản trị rủi ro tín dụng phù hợp. Thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro độc lập với kinh doanh tiến tới thực hiện quản lý rủi ro theo ngành dọc, giảm dần mức độ uỷ quyền theo hàng ngang.
Hoàn thiện bộ máy quản trị rủi ro tín dụng từ Hội sở chính đến các chi nhánh với sự phân cấp rò ràng về mức phán quyết, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận, đồng thời xây dựng các chính sách quản lý rủi ro tín dụng, chính sách phân bổ tín dụng, chính sách khách hàng, xây dựng danh mục đầu tư trong từng thời kỳ.
Phòng tín dụng cần thiết có thể chia thành nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau như bộ phận quan hệ khách hàng, bộ phận quản lý rủi ro tín dụng, bộ phận tác
nghiệp nhằm bảo đảm tính khách quan trong hoạt động cấp tín dụng vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp trong việc xử lý và thu hồi nợ. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng chưa có bộ phận quản lý rủi ro và xử lý nợ có vấn đề. Khi phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu, cán bộ tín dụng là người cho vay đồng thời là người trực tiếp xử lý rủi ro tín dụng. Mô hình này thực tế đã chỉ ra những hạn chế trong việc xử lý và thu hồi nợ do không có tính chuyên sâu. Do đó, bộ máy quản trị rủi ro tín dụng độc lập với kinh doanh có trình độ cao, làm việc chuyên nghiệp với đầy đủ kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức về pháp luật do công việc xử lý nợ là một công việc khó đòi hỏi cán bộ phải có trình độ, có như thế mới nâng cao hiệu quả của công tác xử lý và thu hồi nợ.
3.3 Một số ý kiến đề xuất
3.3.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh NH
+ Về môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là cơ sở cho hoạt động ngân hàng cũng như hoạt động của các ngành khác có liên quan. Hoàn thiện môi trường pháp lý phải tiến tới minh bạch, ổn định, rò ràng và thông thoáng cho hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng và cho hoạt động kinh doanh nói chung.
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thiện và khẩn trương ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng và doanh nghiệp phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo cơ sở cho các ngân hàng trong việc thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Theo thống kê của cả nước thì án kinh tế tồn đọng qua các năm đã lên đến con số phải báo động do hoạt động của cơ quan thi hành án chưa hiệu quả, thời gian giải quyết một vụ án rất lâu dẫn đến những hạn chế trong việc xử lý nợ. Do đó, khuyến nghị Chính phủ cần quy định rò thời gian tối đa trong từng khâu khi giải quyết khi xử lý hồ sơ qua thi hành án .
+ Về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm
Trong quy định về bảo đảm tiền vay ban hành của hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay, nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là nguyên tắc thỏa thuận giữa người có tài sản bảo đảm và ngân hàng cho vay. Trong đó, quy định bên có tài sản bảo đảm phải bàn giao tài sản thế chấp cho ngân hàng xử lý và thu hồi nợ. Hợp đồng thế chấp quy định điều khoản người có tài sản bảo đảm ủy quyền vô điều kiện và không hủy ngang cho Ngân hàng bán để thu hồi nợ gốc, lãi, lãi phạt, và các khoản phí liên quan nếu sau một thời gian (thường là 60 ngày) mà tài sản bảo đảm chưa được xử lý theo thỏa thuận. Khi phải xử lý tài sản thế chấp thì Ngân hàng được trực tiếp bán và nhận tiền từ việc bán tài sản thế chấp. Tuy nhiên trong thực tế ngân hàng không xử lý tài sản theo cách thức nêu trên do khách hàng không đồng ý bán tài sản, xử lý tài sản bảo đảm theo con đường tố tụng và qua cơ quan đấu giá. Việc phải qua các tổ chức chuyên trách đã làm hạn chế và kéo dài thời gian thu nợ từ bán tài sản bảo đảm.
Hiện nay vấn đề xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận giữa ngân hàng, với khách hàng vay vốn và người mua tài sản chưa có một hành lang pháp lý chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia. Đơn cử trường hợp, một khách hàng bị nợ quá hạn, ngân hàng đã tiến hành khởi kiện và đã được tòa tuyên án. Trong thời gian thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng , khách hàng tự tìm được người mua tài sản nhưng theo quy định của pháp luật thì tài sản chỉ được phép giao dịch trong điều kiện không có tranh chấp, không bị kê biên để bảo đảm thi hành án. Theo quy định trên rò ràng người mua không thể ký hợp đồng chuyển nhượng tài sản được do tài sản đang thế chấp tại ngân hàng. Hợp đồng chuyển nhượng chỉ được công chứng và chứng thực khi tài sản sản đó được xóa đăng ký thế chấp, không bị kê biên và không có tranh chấp. Về phía ngân hàng, khi khách hàng chưa trả hết phần dư nợ được bảo đảm từ tài sản thế chấp trên thì ngân hàng không thể xóa đăng ký thế chấp. Về phía khách hàng, chỉ có thể trả nợ ngân hàng khi bán được tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, bán tài sản theo cách trên khách hàng sẽ phải chịu thiệt hại ít hơn so với bán qua Trung tâm đấu giá.
Chính vì thực tế trên, bán tài sản theo thỏa thuận ba bên hiện chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện. Ngân hàng vì nguyên tắc an toàn sẽ để tài sản được bán qua Trung tâm đấu giá. Tuy nhiên, bán tài sản qua Trung tâm đấu giá sẽ mất rất nhiều thời gian, đôi khi người có tài sản phải thi hành án bị thiệt thòi. Nhiều trường hợp thực tế khi thời gian bán tài sản qua Trung tâm đấu giá, dài thì số tiền thu hồi được do bán tài sản không đủ thanh toán nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi phạt cho ngân hàng.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Đồng Nai một số ngân hàng đã áp dụng biện pháp bán tài sản theo thỏa thuận khi tài sản đang thế chấp, cầm cố tại ngân hàng theo cách: ngân hàng, khách hàng, cùng người mua tài sản tiến hành thỏa thuận bằng văn bản về việc bên mua tài sản đồng ý mua tài sản thế chấp và đồng ý để ngân hàng phong tỏa tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng bằng giá trị tài sản để bảo đảm cho việc giao dịch mua bán. Ngân hàng chỉ được quyền trích tài khoản tiền gửi của người mua để trả nợ vay cho khách hàng khi hợp đồng chuyển nhượng tài sản được công chứng chứng thực và đủ điều kiện đăng ký quyền sử dụng tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Trong trường hợp người mua vì một lý chủ quan nào đó không mua tài sản theo đúng thỏa thuận thì sẽ bị mất số tiền theo thỏa thuận. Ngân hàng trên cơ sở biên bản thỏa thuận ba bên tiến hành xuất kho tài sản bảo đảm đồng thời thực hiện việc xóa đăng ký thế chấp để tạo điều kiện cho việc thực hiện giao dịch chuyển nhượng.
Việc bán tài sản bảo đảm theo cách thức trên hàm chứa nhiều rủi ro về phía ngân hàng như: Khi tài sản đã xóa đăng ký thế chấp đồng nghĩa với việc tài sản trên không bảo đảm cho bất kỳ khoản nợ nào tại ngân hàng; hoặc vì một lý do khách quan như tranh chấp về tài sản…thì việc chuyển nhượng không thể thực hiện được. Lúc này, rủi ro nghiêng về phía ngân hàng do tài sản đã được xóa đăng ký thế chấp.
Do đó, Chính phủ nên ban hành cơ sở pháp lý cho việc bán tài sản bảo đảm tiền vay theo thỏa thuận như ngân hàng được đơn phương đăng ký thế chấp lại khi giao dịch chuyển nhượng không thành, người mua được quyền thực hiện đăng ký quyền sử dụng khi mua tài sản. Chính phủ cần có các quy định để tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể tham gia giao dịch để bảo đảm được ba mục đích chính, thứ nhất: ngân hàng thu hồi được nợ; thứ hai: khách hàng bán được tài sản để thanh toán nợ vay ngân hàng; thứ ba: người mua tài sản được mua tài sản với giá cả hợp lý.
+ Về bảo hiểm tín dụng
Bảo hiểm tín dụng có vị trí đặc biệt trong hệ thống quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng. Lợi ích của việc mua bảo hiểm là hoán đổi rủi ro cho tổ chức chuyên nghiệp kinh doanh rủi ro. Tùy theo hình thức vay mà khách hàng phải mua bảo hiểm đối với tài sản cầm cố thế chấp, bảo hiểm với tài sản hình thành từ vốn vay, bảo hiểm đối với từng công đoạn hình thành nên tài sản mà vốn của ngân hàng tham gia vào việc hình thành tài sản đó. Hiện nay, các ngân hàng đã áp dụng bảo hiểm đối với tùy từng loại sản phẩm như sản phẩm cho vay tín chấp cán bộ công nhân viên, sản phẩm cho vay mua máy móc thiết bị và phương tiện vận tải. Để hạn chế rủi ro tín dụng thì mua bảo hiểm cho từng mục đích vay vốn, cho tuổi thọ của khách hàng vay là vấn đề cần được đưa ra thảo luận và xem xét trong thời gian tới.
3.3.2 Tăng cường hoạt động thanh tra giám sát đối với hệ thống Ngân hàng thương mại.
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động tín dụng không những góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng mà còn phát hiện kịp thời những sai sót đồng thời định hướng các ngân hàng phát triển đúng hướng. Do đó, phải tăng cường và nâng cao hiệu quả của thanh tra ngân hàng. Để nâng cao chất hiệu quả thanh tra ngân hàng, cần tiến hành theo hướng sau
Thứ nhất: Nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ làm công tác thanh tra. Thứ hai: Hoàn thiện bộ máy thanh tra của ngân hàng theo nghành dọc từ
Trung ương tới cơ sở độc lập về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong bộ máy tổ chức của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba:Tăng cường tần suất hoạt động thanh tra để giảm thiểu rủi ro.