Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại 3298


+ Năng lực nghiệp vụ của nhân viên cho vay yếu kém, từ khâu thẩm định lựa chọn khách hàng quan hệ tín dụng, thiết kế các yếu tố bảo đảm an toàn cho khoản tín dụng, cho đến khâu giám sát tín dụng thiếu hiệu quả vì vậy không thể ngăn chặn được rủi ro từ phía khách hàng.

+ Hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ của ngân hàng thiếu hiệu quả,

không có tác dụng hỗ trợ cho bộ phận kinh doanh trong việc cảnh báo và xử lý rủi ro.

Nhóm rủi ro xuất phát từ đạo đức nghề nghiệp của ngân hàng

+ Do hội đồng quản trị, Ban điều hành ngân hàng chạy theo lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, đi ngược lại các quy định, nguyên tắc trong quản lý hoạt động tín dụng.

+ Do cán bộ ngân hàng cố tình vi phạm đạo đức nghề nghiệp, dẫn đến việc cho vay khống, cho vay không đúng mục đích, thẩm định dự án đầu tư, phương án kinh doanh không chính xác.

Tóm lại, hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn chứa đựng tiềm ẩn rủi ro, nguồn phát sinh có thể do tác động thiên tai, cơ chế chính sách, sự biến động kinh tế chính trị hay do sự yếu kém của khách hàng về năng lực quản lý, khả năng tài chính, thậm chí là sự lừa gạt của khách hàng... và chính sự yếu kém của bản thân ngân hàng trong việc sàng lọc thông tin, chọn lọc khách hàng và công tác theo dõi, kiểm soát khoản vay. Những rủi ro này hoàn toàn có thể kiểm soát được bằng một cơ chế và chính sách quản lý rủi ro thích hợp trong từng thời kỳ.

1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng

Đối với mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng, khi rủi ro xảy ra đều dẫn đến những ảnh hưởng khó lường và hậu quả của chúng cũng không dễ dàng khắc phục trong một thời gian ngắn. Chính vì thế, quản trị rủi ro được coi là hoạt động trọng tâm trong các tổ chức tài chính – ngân hàng bởi kiểm soát và quản lý rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Mặt khác, nền kinh tế thị trường nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Do đó, quản trị rủi ro là một nhu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.

Giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 4


Như đã đề cập ở phần trên, rủi ro tín dụng có thể mang lại những hậu quả rất nguy hiểm đối với ngân hàng thương mại. Vì vậy quản trị rủi ro tín dụng được xem là một công việc có ý nghĩa sống còn đối với tất cả các ngân hàng thương mại, dù quy mô lớn hay nhỏ, phạm vi hoạt động rộng hay hẹp. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng gắn chặt với hoạt động cấp tín dụng, nó thể hiện sự vận dụng các nguyên tắc quản trị nói chung vào hoạt động có tính đặc thù của quá trình cấp tín dụng. Xuất phát từ cách hiểu như vậy, theo người viết, khái niệm quản trị rủi ro tín dụng có thể được trình bày như sau:

Quản trị rủi ro tín dụng là tiến trình của nhà quản trị bao gồm nhận dạng, đánh giá mức độ rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng phải đối mặt đồng thời lựa chọn và thực thi những biện pháp/công cụ thích hợp nhằm đối phó với rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.

Mục đích cao nhất của quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo rủi ro tín dụng được kiểm soát trong khả năng ngân hàng có thể chấp nhận được, đồng thời với việc tối đa hoá giá trị mà ngân hàng kỳ vọng đạt được trong điều kiện biến động của môi trường kinh doanh.

1.2.2. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

Thứ nhất, quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng tốt góp phần giảm tổn thất, giảm

thiểu chi phí hoạt động và gia tăng lợi nhuận cho chính bản thân ngân hàng.

Chi phí cho việc trích lập dự phòng và xử lý các khoản rủi ro tín dụng là rất lớn và thường được tính vào chi phí hoạt động, vì vậy việc trích lập dự phòng rủi ro sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, nếu công tác quản trị rủi ro tín dụng có hiệu quả, các khỏan tín dụng trên danh mục của ngân hàng có chất lượng tốt sẽ tạo điều kiện để ngân hàng giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận.

Thứ hai, quản trị rủi ro tín dụng tốt góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ vỡ nợ của các ngân hàng, cũng như gia tăng năng lực tài chính của các ngân hàng trong quá trình thực hiện các cam kết về việc gia nhập WTO trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.

Thứ ba, quản trị rủi ro tín dụng tốt góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội của


đất nước, khu vực. Thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định và bền vững, tạo lòng tin vững chắc từ công chúng và khách hàng của các ngân hàng cũng như tạo niềm tin và gia tăng mức độ tín nhiệm đối với cộng đồng, các tổ chức quốc tế đối với việc quản trị hoạt động ngân hàng tại Việt Nam

1.2.3. Nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại


1.2.3.1 Nguyên tắc cơ bản


Chấp nhận rủi ro: Bản thân hoạt động ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro, vì vậy một trong những nguyên tắc của ngân hàng là chấp nhận rủi ro. Rủi ro là sự hiện hữu khách quan trong hoạt động tín dụng ngân hàng, ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như mong muốn một mức thu nhập phù hợp. Bởi muốn loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là điều không thể. Đây là một xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên việc chấp nhận rủi ro của ngân hàng không phải là thụ động mà là chấp nhận một cách chủ động, cụ thể trong nhiều trường hợp ngân hàng có thể chuyển nó thành cơ hội thu lợi nhuận cho mình. Việc chấp nhận mức độ, lựa chọn loại bỏ rủi ro tín dụng nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng.

Điều hành rủi ro trong khả năng cho phép: Ngân hàng phải tính toán khả năng gánh chịu rủi ro của mình để thực hiện việc cấp các khoản tín dụng, đồng thời duy trì một danh mục tín dụng phù hợp. Ngân hàng luôn phải tuân thủ nguyên tắc không cấp tín dụng cho những món vay không có khă năng khống chế và kiểm soát.

Quản lý độc lập các rủi ro tín dụng riêng biệt: Các rủi ro trong ngân hàng là độc lập nhau chính vì vậy phải có biện pháp quản lý riêng rẽ, không được gộp các rủi ro để đưa ra cùng một phương pháp điều hành. Cùng một loại rủi ro nhưng phải được sắp xếp, phân loại và quản lý theo từng nhóm nhằm phù hợp với yêu cầu quản lý và tuân theo quy định của pháp luật.

Phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập: Thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng chính vì vậy không ít ngân hàng đã chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà mắc sai sót trong việc quản trị rủi ro. Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết quản trị rủi ro tín dụng. Các ngân hàng trong quá trình hoạt


động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại, mức độ rủi ro tín dụng mà thiệt hại khi chúng xảy ra không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Có nghĩa rằng, tất cả các loại rủi ro có mức độ rủi ro cao hơn mức độ thu nhập mong đợi cần phải được loại bỏ.

Phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính: Giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro tín dụng phải phù hợp với phần vốn mà ngân hàng có thể trích lập dự phòng cho những thiệt hại do chúng gây ra. Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng vì khi rủi ro tín dụng xảy ra nó kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm tiềm năng lợi nhuận và nhịp độ phát triển ngân hàng trong tương lai.

Hiệu quả kinh tế: Mục đích cơ bản của việc quản trị rủi ro tín dụng là điều tiết những tác động tiêu cực của rủi ro tín dụng khi xảy ra. Cùng với điều này, chi phí của ngân hàng bỏ ra điều tiết phải thấp hơn giá trị thiệt hại do những rủi ro tín dụng ngân hàng có khă năng xảy ra và thậm chí ở mức độ giá trị cao nhất khi chúng xảy ra.

Phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng: Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng cần phải được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến lược phát triển cũng như các chính sách điều hành từng hoạt động riêng biệt của ngân hàng. Điều này sẽ tạo sự phát triển đồng đều, hiệu quả, an toàn và bền vững trong hoạt động của ngân hàng.

1.2.3.2. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng

Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision

- BCBS) là một ủy ban được thành lập gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng từ năm 1974 bởi các Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10, tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Vào năm 1988, Ủy ban Basel đã giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) còn được gọi là Basel I. Hiệp ước Basel I cung cấp nội dung cơ bản về khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I ngay sau khi ra đời vào năm 1988 được phổ biến trong các quốc gia thành viên và sau đó được phổ biến ở hầu hết các nước có các ngân hàng tham gia hoạt động quốc tế với các mục đích và tiêu chuẩn gồm:

Mục đích của Basel I: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế; Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.


Tiêu chuẩn của Basel I gồm có ba nội dung:

(i) Tỉ số vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ số Cook”: Tỉ số này được phát triển bởi Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.

Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR - Capital Adequacy Ratio) = Vốn bắt buộc/Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền (RWA)

Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.

(ii) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định: Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3

Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).

Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.

Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn

(iii) Vốn tính theo rủi ro gia quyền:

RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)

Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới nhưng vẫn có khá nhiều điểm hạn chế so với xu thế phát triển của hệ thống các ngân hàng. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel


mới chính thức được ban hành và còn được gọi là Hiệp ước Basel II với khung đo lường mới gồm 3 trụ cột chính:

(i) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.

(ii) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).

Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:

Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.

Thứ hai, các Giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; Giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.

Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn

mức tối thiểu theo quy định.

Thứ tư, Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.


(iii) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.

Theo đó, Ủy ban Basel đã ban hành những văn bản cụ thể, đưa ra những nguyên tắc quản trị thích ứng với mỗi lọai rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng. Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng của ủy ban Basel lần đầu được ghi nhận trong bản Nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng với các nội dung cơ bản của nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng theo tinh thần của Ủy ban Basel gồm 16 nguyên tắc chia thành 4 nhóm như sau [Basel Committee on Banking Supervision (Basel September 2000), Principles for the Management of Credit Risk]

Thiết lập một môi trường tín dụng thích hợp:

Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét chiến lược rủi ro tín dụng theo định kỳ, xem

xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, khả năng sinh lời.

Nguyên tắc 2: Thực hiện chiến lược chính sách tín dụng, xây dựng các quy trình, thủ tục cho vay đối với từng khoản vay cụ thể và toàn bộ danh mục nhằm xác định, đánh giá, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng.

Nguyên tắc 3: Xác định và quản lý RRTD trong mọi hoạt động và mọi sản phẩm của Ngân hàng. Đảm bảo mọi hoạt động đều được thực hiện đúng theo các thủ tục và quy trình kiểm soát thích hợp và được phê duyệt đầy đủ.

Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh:


Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: những hiểu biết về người

vay, mục tiêu, cơ cấu tín dụng và nguồn thanh toán.

Nguyên tắc 5: Thiết lập hạn mức tín dụng tổng quát cho từng Khách hàng riêng lẻ, nhóm những Khách hàng vay có liên quan đến nhau, trong và ngoài bảng cân đối kế toán.


Nguyên tắc 6: Có các quy trình rõ ràng được thiết lập cho việc phê duyệt các

khoản tín dụng mới, gia hạn các khoản tín dụng hiện có.

Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng cần phải dựa trên cơ sở giao dịch thương mại, quản lý chặt chẽ các khoản vay đối với các doanh nghiệp và cá nhân có liên quan, làm giảm bớt rủi ro trong cho vay.

Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi phù hợp:


Nguyên tắc 8: Áp dụng quy trình quản lý tín dụng có hiệu quả và đầy đủ đối với

các danh mục tín dụng.

Nguyên tắc 9: Có hệ thống kiểm soát đối với các điều kiện liên quan đến từng

khoản tín dụng riêng lẻ, đánh giá đầy đủ của các khoản dự phòng rủi ro tín dụng.

Nguyên tắc 10: Xây dựng và sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ, hệ thống đánh giá cần phải nhất quán với hoạt động của Ngân hàng.

Nguyên tắc 11: Hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích giúp Ban quản lý đánh

giá Rủi ro tín dụng cho các hoạt động trong và ngoài Bảng cân đối kế toán.

Nguyên tắc 12: Có hệ thống kiểm soát đối với cơ cấu tổng thể, chất lượng của

danh mục tín dụng.

Nguyên tắc 13: Xem xét ảnh hưởng của những thay đổi về điều kiện kinh tế có

thể xảy ra trong tương lai.


Đảm bảo quy trình kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng:


Nguyên tắc 14: Thiết lập hệ thống xem xét tín dụng độc lập và liên tục, cần thông

báo kết quả đánh giá cho Hội đồng quản trị và Ban quản lý cấp cao.

Nguyên tắc 15: Quy trình cấp tín dụng cần phải được theo dõi đầy đủ, cụ thể: việc cấp tín dụng phải tuân thủ với các tiêu chuẩn thận trọng, thiết lập và áp dụng kiểm soát nội bộ, những phạm vi về các chính sách, thủ tục và hạn mức tín dụng cần được báo cáo kịp thời.

Nguyên tắc 16: Có hệ thống quản lý đối với các khoản mục tín dụng phát hiện

thấy có vấn đề.

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí