Thiếu Thông Tin Về Quy Hoạch Sử Dụng Đất Trên Địa Bàn


Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng yếu kém sẽ dẫn tới không nắm chắc các quy định trong các bộ luật, quy chế cho vay và các quy định khác liên quan đến công tác tín dụng. Cho vay theo thói quen mà không thường xuyên cập nhập và bổ sung kiến thức. Thực tế cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn yếu thường không xác định đúng đắn năng lực tài chính, trách nhiệm của người vay đối với tài sản trong các quan hệ dân sự, thẩm định trước khi cho vay chưa kỹ, cẩu thả trong quá trình lập hồ sơ tín dụng. Hạn chế trên dẫn đến việc thẩm định khách hàng không chính xác, không quản lý được hồ sơ vay đó là nguyên nhân chính dẫn tới rủi ro trong việc thu hồi nợ. Tuy nhiên hạn chế trên có thể khắc phục bằng cách nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ tín dụng và lãnh đạo cấp tín dụng thông qua các khóa đào tạo, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Nhưng để hạn chế tối thiểu nguyên nhân này thì bên cạnh việc các ngân hàng thường xuyên tổ chức các buổi học hỏi, thảo luận để trao đổi chuyên môn phục vụ cho công việc thì bản thân người làm cán bộ tín dụng, lãnh đạo cấp tín dụng phải là người tự chủ trong việc tìm kiếm kiến thức và học hỏi để nâng cao nhận thức về chuyên môn nghiệp vụ.‌

2.5.2.4. Thiếu thông tin về quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn

Theo quy định của Chính phủ, thì thông tin quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất phải được công bố công khai tại các ban ngành có chức năng để người dân được biết. Nhưng thực tế thì thông tin quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất rất hạn chế và không được phổ biến. Khi tiến hành định giá tài sản bảo đảm để cho vay cán bộ tín dụng dựa trên hồ sơ tài sản đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận với nội dung quy hoạch đất cụ thể ghi trên giấy chứng nhận. Tuy nhiên, thời điểm nhà nước cấp giấy và thời điểm ngân hàng định giá không trùng khớp dẫn đến cán bộ tín dụng định giá tài sản theo thông tin quy hoạch cũ mà không cập nhật được các biến động về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của nhà nước dẫn đến định giá tài sản bảo đảm quá cao, quyết định mức cho vay cao. Khi khách hàng kinh doanh thua lỗ không còn nguồn nào khác để trả nợ ngoài nguồn bán tài sản bảo đảm thì lúc này giá trị tài sản bảo đảm được bán cũng không đủ thu hồi do tài sản bảo đảm đã bị thay đổi quy hoạch.


2.5.2.5. Hạn chế trong công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ

Kiểm tra nội bộ có tác dụng và hiệu quả lớn vì tính nhanh chóng, kịp thời ngay khi phát sinh vấn đề và được thực hiện thường xuyên cùng với qúa trình kinh doanh. Tuy nhiên, việc kiểm tra nội bộ của các Ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức, kiểm tra sơ sài theo cách chiếu lệ, chưa chặt chẽ. Chỉ khi một chi nhánh nào có những vấn đề nổi cộm thì kiểm tra kiểm soát mới kiểm tra kỹ điều đó làm mất đi ý nghĩa quan trọng của kiểm tra kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, theo cơ cấu tổ chức của hầu hết các ngân hàng thì phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ tại chi nhánh không trực thuộc chi nhánh mà trực thuộc trụ sở chính. Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ thực hiện việc kiểm tra theo yêu cầu của trụ sở chính để bảo đảm tính khách quan. Tuy nhiên, biên bản kiểm tra thực tế phải được thông qua Ban lãnh đạo chi nhánh, điều đó đã mất đi tính độc lập của kiểm tra viên trong việc ghi nhận những sai sót trong biên bản kiểm tra.

2.5.2.6. Trách nhiệm cán bộ tín dụng, cán bộ lãnh đạo còn yếu

Đạo đức của người làm công tác tín dụng liên quan trực tiếp đến rủi ro tín dụng xuất phát từ yếu tố chủ quan. Tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu tăng nhanh ở Ngân hàng Công Thương chi nhánh Khu công nghiệp Biên Hòa cho thấy một trong những nguyên nhân chính là đạo đức của cán bộ tín dụng và cán bộ quyết định cấp tín dụng. Họ cố tình định giá tài sản bảo đảm cao gấp nhiều lần giá thị trường để cho vay. Không xem xét đến phương án kinh doanh, thậm chí còn không đi thẩm định tài sản bảo đảm. Cán bộ tín dụng và lãnh đạo cấp tín dụng nhận hồ sơ vay và giải quyết hồ sơ vay qua trung gian là các doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ đáo hạn giải chấp.

Dịch vụ vay qua “cò tín dụng” có sự liên kết mật thiết các cán bộ tín dụng , lãnh đạo phòng tín dụng, và người được thẩm quyền quyết định cấp tín dụng. Mỗi một hồ sơ qua “cò tín dụng” thường mất phí khoảng 5% đến 10% trên số tiền vay. Tại Đồng Nai phí vay qua “ cò tín dụng” khoảng 10%. Ngay khi nhận tiền vay các hộ gia đình chỉ nhận được 90% số tiền vay do 10% phải trích lại để thanh toán các khoản chi phí.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


Vay qua “cò tín dụng” khá phổ biến nhưng một hình thức vay khác cũng không kém phổ biến là “vay ké “. Cán bộ tín dụng hoặc lãnh đạo cấp tín dụng gom hai ba hộ gia đình vào một món vay do người A không có đủ điều kiện để vay nhưng có tài sản thế chấp, người B có đủ điều kiện vay nhưng tài sản bảo đảm ít hoặc không có tài sản để bảo đảm. Hình thức vay ké đã xảy ra nhiều trong thực tế. Người A và người B kết hợp lại với nhau để dùng phương án vay vốn của người B làm phương án vay tiền ngân hàng với tài sản thế chấp là tài sản của người A. Vay ké cũng xuất hiện đối với cán bộ tín dụng hoặc lãnh đạo cấp tín dụng. Khách hàng là người đứng tên vay trên bề mặt hồ sơ giấy nhưng bản chất cán bộ tín dụng hoặc lãnh đạo cấp tín dụng vay một phần trong số số tiền Ngân hàng cho khách hàng vay. Số tiền vay ké trên cán bộ tín dụng, hoặc lãnh đạo cấp tín dụng dùng cho vay đáo hạn đối với các hồ sơ mình đang quản lý … với lãi suất cao gấp 5 đến 7 lần lãi suất cho vay của ngân hàng với ba mục đích thứ nhất không để hồ sơ vay phát sinh nợ quá hạn, thứ hai thu được lãi vay nóng cao, thứ ba thu được phí cò tín dụng khi giải quyết hồ sơ vay lại. Cứ như thế tiến trình cho vay qua cò, vay ké diễn ra. Khi khách hàng kinh doanh thua lỗ không trả được nợ thì mọi chuyện đổ bể, cán bộ tín dụng không thể giữ cho hồ sơ trong hạn được, nợ qúa hạn tại các ngân hàng nở hoa.

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai - 10

Do đó có thể nói đạo đức của cán bộ tín dụng , lãnh đạo cấp tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Do các quy chế cho vay dù có hoàn thiện đến đâu thì cũng có những chỗ hở và có thể lách được. Nên để hạn chế rủi ro tín dụng thì phải giải quyết được bản chất cốt lòi của vấn đề về đạo đức của các cá nhân có liên quan đến việc cấp tín dụng.

2.5.2.7 Cho vay sai quy chế, thiếu kiểm tra kiểm soát

Quy chế cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng và có tính kiểm soát rủi ro tín dụng cao nếu thực hiện đúng quy trình quy chế. Tuy nhiên trên thực tế, các cán bộ tín dụng, lãnh đạo cấp tín dụng thường không tuân thủ tuyệt đối mà đôi khi việc lách quy chế được biện minh bằng các giải thích linh hoạt trong thẩm định và quyết định cho vay. Thực chất, việc cho vay sai quy chế có thể xuất phát từ hai nguyên nhân chính: thứ nhất do cán bộ tín dụng không hiểu hết được quy trình, quy


chế tín dụng dẫn đến cho vay sai quy chế tín dụng. Thứ hai, cán bộ tín dụng và lãnh đạo cấp tín dụng nắm rò quy chế nhưng cố tình làm sai quy chế vì nhiều mục đích khác nhau. Chính việc lách quy chế, thực hiện không đúng quy trình, quy định là nguyên nhân xuất phát rủi ro tín dụng chính trong nhóm nguyên nhân phát sinh từ phía ngân hàng.

Bên cạnh nguyên nhân trên, rủi ro tín dụng còn xuất phát từ việ cán bộ tín dụng không kiểm tra, kiểm soát được đồng vốn vay, thậm chí nhiều hồ sơ vay được ký trước biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay ngay khi giải ngân để hoàn tất hồ sơ tín dụng. Phần lớn cán bộ tín dụng thường theo dòi nhóm nợ của khách hàng và chỉ tiến hành kiểm tra sau nếu món vay đã chuyển nợ quá hạn. Chính vì lẽ đó dẫn đến việc xử lý không kịp thời đối với những món vay đã chuyển nợ quá hạn. Do đó, nguyên tắc cơ bản đối với cán bộ tín dụng để nhằm hạn chế rủi ro tín dụng là việc kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay để kịp thời có các biện pháp thu hồi nợ.

2.5.2.7 Chỉ đạo mang tính chủ quan của cấp trên

Khi nói đến rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thường đề cập đến rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng, ít nói đến rủi ro tín dụng do tác động của người quản lý. Một nhà quản lý làm đúng chức năng, nhiệm vụ thì phòng ngừa được sự phát sinh của loại rủi ro này. Nhưng trên thực tế, vì lợi ích cá nhân hay một nhóm tập thể cán bộ quản lý trong công tác điều hành đã vô tình hoặc cố ý tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro này phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán bộ quản lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện khách hàng vay vốn có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ tín dụng thẩm định ghi rò nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là đề nghị không duyệt cho vay. Thông thường thì những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, nhưng vì một lý do tế nhị nào đó, nhà quản lý hay nhóm cán bộ quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách hàng hợp thức hóa hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, thẩm định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo

2.5.2.8 Phân loại nợ và trích lập dự phòng chưa hoàn toàn tuân thủ quy định

Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành có hiệu lực từ ngày 22/04/2005 quy định rò đến thời điểm 4/2008 các tổ chức


tín dụng phải tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo điều 7 của quyết định thay vì thực hiện theo điều 6. Nhưng đến nay trên địa bàn tỉnh Đồng Nai chỉ có Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tiến hành phân loại nợ theo điều 7 của quyết định 493

Hầu hết các ngân hàng còn lại hiện đang phân loại nợ theo điều 6, tức là phân loại nợ theo khả năng trả nợ, không xét đến tiêu chí về tình hình tài chính của khách hàng. Ngân hàng Nhà nước chưa kiên quyết trong việc buộc các ngân hàng phân loại nợ quy định ban hành. Do đó, dẫn tới chưa phản ánh đầy đủ tình hình nợ quá hạn, nợ xấu của các ngân hàng trên địa bàn tỉnh.

2.5.3 Nguyên nhân khách quan khác

2.5.3.1 Môi trường kinh doanh của khách hàng không thuận lợi

Môi trường kinh doanh được đánh giá là có mức độ ảnh hưởng rất cao đến rủi ro tín dụng. Đó là nhóm nguyên nhân khách quan mà khó có thể hạn chế được. Việt Nam đang nằm trong danh sách các nước đang phát triển, đang trong giai đoạn phát triển hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới nên một số ngành nghề trong nước luôn bị ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế của các nước lớn như ngành nông nghiệp, dệt may, ngành thủy sản. Sự tác động của nền kinh tế thế giới đối với các ngành hàng trên gây nên rủi ro phá sản của các doanh nghiệp có vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, hội nhập vừa làm cho các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để phát triển song cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ phá sản, hệ lụy là rủi ro tín dụng cho hệ thống ngân hàng.

2.5.3.2 Thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh

Hiện nay nền kinh tế nước ta nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn. Cho vay phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay trên địa bàn tỉnh. Do tính chất đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh nên hiện nay hầu hết các ngân hàng trên địa bàn đều có sản phẩm cho vay phục vụ nông nghiệp nông thôn. Trong đó các nhu cầu về vốn phục vụ chăn nuôi thì cho vay chăn nuôi heo, gà, nuôi tôm, nuôi cá là phổ biến nhất. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi luôn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tự nhiên như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh,


đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng phát sinh từ yếu tố khách quan mà ngân hàng thường khó kiểm soát được

2.5.3.3 Cơ chế chính sách còn thiếu chặt chẽ

a. Pháp luật còn nhiều khe hở

Hiện nay, chúng ta đã có đầy đủ luật hỗ trợ về mặt pháp lý liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng ngân hàng, và liên quan đến các ban ngành khác. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng còn gặp phải nhiều vướng mắc và chồng chéo như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm nợ vay. Trên thực tế, các ngân hàng không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng để xử lý mà phải xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng ngân hàng không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng như:

+ Theo quy định của pháp lệnh thi hành án thì người thi hành án phải nộp phí thi hành án trên giá trị tài sản hoặc số tiền mà người được thi hành án thực thu. Điều này không hợp lý trong trường hợp các ngân hàng sau khi có quyết định của tòa án, đã gửi đơn yêu cầu thi hành án, thì số tiền mà khách hàng trả nợ dù cho đó là kết quả của thi hành án hay do kết quả từ việc ngân hàng tự thu đều bị thu phí thi hành án do số tiền thu được phát sinh sau khi ngân hàng yêu cầu thi hành án. Quy định này đã bảo vệ quyền lợi của thi hành án mà không bảo vệ quyền lợi của người được thi hành án cụ thể là các ngân hàng trong quá trình thu hồi nợ qua con đường tố tụng.

+ Đối với tài sản bảo đảm đã kê biên thì pháp lệnh thi hành án không cho phép hai bên tự thỏa thuận xử lý tài sản bảo đảm. Điều đó không hợp lý và không bảo vệ quyền chủ nợ do giá trị tài sản kê biên bán đấu giá thường thấp hơn giá trị tài sản do hai bên thỏa thuận bán tài sản.

+ Kê biên tài sản để định giá trị tài sản bán đấu giá không có cơ sở. Thông thường chấp hành viên định giá tài sản theo khung giá nhà nước nhưng do khung giá nhà nước thấp nên chấp hành viên kết luận giá trị tài sản theo giá thị trường mà không


đưa ra được các căn cứ định giá cụ thể. Điều đó dẫn tới giá trị tài sản kê biên bán đấu giá quá cao, dẫn tới việc đấu giá không thành. Mỗi lần đấu giá không thành, giá trị tài sản lại giảm theo tỷ lệ 10% so với giá trị tài sản ở lần đấu giá gần nhất. Việc định giá tài sản cao dẫn đến thời gian giảm giá đến giá hợp lý của tài sản dài đồng nghĩa với thời gian thu nợ dài, đôi khi giá trị tài sản sau khi bán đấu giá thành không không đủ bù đắp tiền gốc, lãi vay trong hạn, lãi phạt quá hạn, phí….

+ Thời gian giải quyết các tranh chấp qua con đường tố tụng quá lâu, mất khoảng từ một năm trở lên và các ngân hàng phải tốn kém rất nhiều thời gian, công sức cũng như chi phí để thu nợ qua con đường tố tụng.

+ Đối với những hồ sơ thu nợ qua khởi kiện thì tòa tuyên con nợ phải trả cho chủ nợ số tiền gốc và lãi đến thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật, ngoài ra phải trả lãi phát sinh theo lãi suất cơ bản đến thời điểm trả hết nợ. Thông thường lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước thường thấp hơn lãi suất cho vay trên hợp đồng tín dụng.

Điều này làm thiệt hại cho ngân hàng khi thu hồi nợ qua con đường khởi kiện

b. Quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà nước chưa hiệu quả

Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có những đóng góp to lớn trong việc quản lý và điều hành chính sách tài chính tiền tệ, chính sách tài khoá để phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, khi áp dụng các chính sách trên thì mặt trái các chính sách của Ngân hàng Nhà nước lại ảnh hưởng tới tình hình hoạt động kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp: ví dụ để kiểm soát lạm phát Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất tiền gửi, tăng lãi suất chiết khấu do đó lãi suất cho vay tăng theo. Kết quả trên dẫn tới chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh cao, doanh nghiệp có thể bị thua lỗ. Đơn cử trường hợp năm 2008 lãi suất cho vay có thể lên tới 21%/năm, doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất do lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí lãi vay ngân hàng. Do đó, tác giả thiết nghĩ chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ phải thực sự linh hoạt để ngoài mục tiêu quản lý nhà nước nói chung thì phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp có một môi trường kinh doanh ổn định

Hoạt động thanh tra Ngân hàng Nhà nước đã đóng góp tích cực trong việc kiểm tra kiểm soát chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, do đội ngũ thanh tra viên còn


thiếu dẫn tới tần suất thanh tra chưa cao, một số cán bộ thanh tra Ngân hàng Nhà nước có năng lực còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của công tác thanh tra, giám sát. Những tồn tại cần khắc phục chỉ được đưa ra khi đó là những vấn đề nổi cộm không thể che dấu mới được. Tình trạng du di trong việc bỏ lỗi trong các biên bản thanh tra giám sát còn nhiều. Biên bản thanh tra chưa phản ánh đầy đủ thực chất hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó phương pháp thanh tra không đa dạng, thường rất lạc hậu, hoạt động thanh tra hiện còn theo hướng sử lý các vụ việc đã phát sinh không có tính chất cảnh báo, ngăn ngừa rủi ro tiềm ẩn hoạt động tín dụng.


Kết luận chương II

Chương II của bản luận văn đã phản ánh thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong 5 năm gần nhất từ 2007 đến 2011. Qua số liệu về hoạt động tín dụng, bản luận văn cũng đã phản ánh và phân tích tình hình rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn, đồng thời phân tích và chỉ ra những nguyên nhân của rủi ro tín dụng phát sinh trong thời gian qua. Tuy rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn không lớn, nhưng có diễn biến theo hướng gia tăng, vì vậy việc phân tích đánh giá các nguyên nhân chủ quan, khách quan sẽ giúp có giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng sẽ được trình bày tiếp theo trong chương III

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí