- 2 tuần cho việc hoàn chỉnh biên bản thẩm định
g) Về tổ chức và nhân sự cho thẩm định
- Tổ chức "Nhóm thẩm định dự án" với trách nhiệm rõ ràng cho từng thành viên, trong đó trưởng nhóm giữ vai trò quản lý, theo dõi công tác thẩm định. Thành phần nhóm thẩm định bao gồm:
+Nhóm nhân sự thường xuyên là những nhân viên công tác tại WB, đại diện các bộ phận khác nhau như: hỗ trợ dự án, giám đốc ngành, ban môi trường và phát triển xã hội, giám đốc vùng, giám đốc quốc gia…
+Nhóm nhân sự không thường xuyên là các nhà tư vấn độc lập được tuyển dụng theo một quy chế rõ ràng, bao gồm: các chuyên gia về kinh tế, chuyên gia phân tích tài chính, kỹ sư, luật sư, nhà xã hội học, chuyên gia về quản lý, quản trị công cộng, nhà giáo dục học, chuyên gia môi trường…
- Nhóm thẩm định làm việc theo một quy trình tác nghiệp được xác định rõ ràng, kiểm soát và sàng lọc chặt chẽ các tài liệu đầu vào, các văn kiện đầu ra, tên gọi, cấu trúc, màu trang bìa của từng tài liệu, địa chỉ gửi, thời hạn gửi tài liệu, thời hạn trả lời. Các bộ phận chức năng của WB giữ vai trò quan trọng trong quá trình thẩm định, sau mỗi bước thẩm định, các tài liệu đầu ra phải được gửi đến các bộ phận khác nhau của WB để lấy ý kiến nhận xét.
h) Về kinh phí thẩm định
Quy định của WB không xác định kinh phí dành cho thẩm định dưới hình thức một con số tuyệt đối hay một tỷ lệ nào đó so với giá trị dự án. Có nghĩa là WB không đưa ra một hạn mức kinh phí chung cho khâu thẩm định. Thay vào đó, WB đã đưa ra hướng dẫn cụ thể (có giá trị như những quy định) về những nguyên tắc, chuẩn mực phải được áp dụng để dự trù kinh phí thẩm định (bao gồm hướng dẫn về các đầu ra, các hoạt động, quỹ thời gian cho tùng hoạt động, số lượng chuyên gia, loại và trình độ chuyên gia, v.v...). Bên cạnh đó, WB có quy định chi tiết về đơn giá hoặc/và nguyên tắc xác định đơn giá cho các loại chi tiêu khác nhau. Do đó, kinh phí thẩm định luôn luôn đươc xác định một cách hợp lý dựa trên các tiêu chí linh hoạt chứ không dựa vào một vài tiêu chí chủ đạo như: lĩnh vực đầu tư, tổng vốn đầu tư. Cơ chế này tạo điều kiện để xác định
chi phí hợp lý cho những dự án có tổng mức đầu tư thấp nhưng tính xã hội cao, cần chi phí thẩm định lớn. Nếu chi phí thẩm định được xác định theo tổng mức đầu tư thì nhiều khả năng chi phí thẩm định sẽ không được xác định đúng và đủ, dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao.
1.3.2. Kinh nghiệm của Viện phát triển quốc tế Havard
Có thể bạn quan tâm!
- Thẩm Định Cho Vay Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Cho Vay Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Cho Vay Dự Án Đầu Tư Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Cơ Cấu Tổ Chức Của Ngân Hàng Tmcp Ngoại Thương Việt Nam (Nguồn: [31])
- Các Văn Bản Đề Nghị Vay Vốn Đầu Tư Dự Án Của Khách Hàng
- Đánh Giá Các Chỉ Tiêu Về Mức Độ Tăng Trưởng, Khả Năng Sinh Lời Của Cđt
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
Viện phát triển quốc tế Havard-Havard Institute for International Development (HIID) là một bộ phận của Đại học Harvard, Hoa Kỳ. HIID được thành lập với mục đích giúp đỡ các nước đang phát triển tiến gần hơn với nền kinh tế toàn cầu, thúc đẩy toàn cầu hóa. HIID thường xuyên phải cân nhắc để phân bổ nguồn vốn vào các dự án phát triển tại các quốc gia Châu Á. Do đó, kinh nghiệm của HIID về thẩm định dự án là hết sức quý báu.
Trong việc đánh giá dự án, HIID đặc biệt lưu ý đến cơ cấu vốn và khả năng sinh lời vì đây là yếu tố cơ bản giúp thấu hiểu được gánh nặng hoặc giá trị thực sự của DAĐT đó. Cần phải xem xét một cách có hệ thống cả giá trị tính theo thời gian của đồng vốn cũng như chi phí cơ hội của nó nhằm xác định những dự án nào có triển vọng nhất giúp nền kinh tế phát triển một cách toàn diện.
Theo HIID, chi phí cơ hội tương ứng của đồng vốn là tỷ lệ sinh lời của đồng vốn ấy khi được đầu tư vào bất cứ khu vực nào khác của nền kinh tế. Nhà tài vốn cho dự án nên chọn số dự án có tỷ lệ cao nhất sinh lời và sử dụng một tỷ lệ chiết khấu thể hiện được hiệu suất kinh tế của các dự án tốt nhưng đã không được đầu tư. Ngoài ra, Có nhiều chi tiết quan trọng phải được xem xét khi đánh giá hiệu quả kinh tế của một dự án, các công ty thường chỉ quan tâm đến khía cạnh tài chính của dự án.
1.3.3. Kinh nghiệm của các Chuyên gia Liên hợp quốc
a. Qui trình dự án
Để có thể tạo ra một mạng lưới tốt các dự án, Chính phủ sẽ cần phải biến các ưu tiên trung hạn rõ ràng của mình (cụ thể về phát triển nông nghiệp, xuất khẩu và công nghiệp nhẹ) thành các chương trình của các Ngành và các tỉnh.
Vì thế cần phải chuẩn bị một danh mục các chương trình đầu tư Nhà nước trên cơ sở cấp Nhà nước, cấp Ngành và cấp Tỉnh. Trong thời gian trước mắt các chương trình này phải chú trọng đến kết cấu hạ tầng, phục hồi hỗ trợ cho các
chương trình đang diễn ra, phát triển thể chế, duy trì các dịch vụ xã hội hiện nay. Nên tránh tập trung vào các dự án có quy mô lớn. Để đáp ứng nhu cầu này, cần xây dựng một chu kỳ dự án rõ ràng và dễ hiểu cho tất cả các dự án. Chu kỳ dự án có thể chia thành một số giai đoạn sau: Xác định dự án, soạn thảo, thiết kế, thẩm định, lựa chọn, cấp vốn, thực hiện và đánh giá dự án.
Ở mỗi giai đoạn chu kỳ của dự án, việc thẩm định kinh tế cần phải đi kèm theo với các loại thẩm định khác như: kỹ thuật, tài chính, thể chế, xã hội, phân phối và môi trường, y tế, kiến trúc sư, giáo dục, sẽ được cần đến để cung cấp tư liệu cho việc tính toán các chi phí và lợi nhuận của dự án.
Những thông tin cần có để thẩm định các dự án bao gồm: các số liệu đầy đủ về các chi phí và lợi nhuận của dự án; số liệu về giá cả trên thị trường thế giới về đầu vào và đầu ra các dự án; số liệu các phương án sử dụng khác nhau của đầu vào gồm đất đai, lao động, và các nguồn khác đầu ra; số liệu về số lượng và mức thu nhập của những ai sẽ được hưởng lợi ích của dự án cũng như những người phải chịu chi phí; thông tin ảnh hưởng của dự án đối với bên ngoài, kể cả ảnh hưởng đến môi trường, độ tin cậy của các số liệu sử dụng và chiều hướng thay đổi hoặc giá thành, cũng như tỷ lệ chiết khấu.
Thực hiện, kiểm tra và đánh giá dự án
Việc thực hiện các dự án đã được thỏa thuận và thông qua là trách nhiệm của các Bộ, Ngành,Tỉnh liên quan kết hợp với tổ chức viện trợ và cơ quan thực hiện.Việc đánh giá các dự án đã hoàn thành cần phải xem xét các dự án đã đạt được các mục tiêu đã đề ra ban đầu chưa và góp phần cho việc xây dựng và phát triển các dự án tiếp theo chưa. Cần phải duy trì việc thu nhập đầy đủ các báo cáo đánh giá dự án và các tổ chức viện trợ nên phối hợp với Chính phủ Việt Nam để cố gắng tiêu chuẩn hóa các báo cáo và thủ tục đánh giá, và đảm bảo những tài liệu này luôn có sẵn trong bản thân Chính phủ và cộng đồng các tổ chức tài trợ.
b. Một số các tiêu chuẩn đánh giá dự án
- Về chi phí và lợi nhuận
Các dự án có thể được thẩm định bằng cách ước tính xem lợi nhuận dự kiến
có lớn hơn chi phí không.
Các chi phí và lợi nhuận mà có thể tính được bằng tiền bao gồm chi phí đầu tư (kể cả chi phí cho nhà xưởng, thiết bị và đất đai); chi phí vận hành trong toàn bộ thời gian dự án; chi phí, lợi nhuận khác ảnh hưởng đáng kể tới các bộ phận của khu vực nhà nước hoặc tư nhân và lợi nhuận dưới dạng thu nhập, tiết kiệm chi phí hoặc các đầu ra khác.
Ở nơi thị trường hoạt động tương đối không bị hạn chế và nếu việc phân phối thu nhập thỏa đáng thì giá cả trên thị trường có thể được sử dụng như là một cơ sở để tính toán các chi phí tài nguyên. Những nơi không có điều kiện này thì giá cả phải được ước tính trên nguyên tắc tối ưu.
Chi phí tối ưu là giá trị đem lại cho xã hội một loại hàng hóa và dịch vụ khi sử dụng một cách tốt nhất (chứ không phải cho dự án đang được xem xét đó). Ở phía đầu vào, chi phí, chi phí tối ưu là mức thiệt hại của giá trị sản lượng thực tế do kết quả của việc chuyển các tài nguyên sang nguồn sử dụng khác. Ở phía đầu ra, giá trị chi phí tối ưu của sản phẩm mới là giá trị của các chi phí tiết kiệm được do phải tìm kiếm các nguồn cung cấp khác, hoặc gía trị thu nhập thực tế có được nhờ việc bán ra nước ngoài những sản phẩm dôi ra, hoặc là giá trị mà người tiêu dùng trả cho số hàng dôi ra bán ở thị trường trong nước.
- Về giá cả thanh toán
Giá cả phản ánh các chi phí tối ưu được gọi là giá hạch toán (đôi khi còn được gọi là giá ảo). Chi phí tối ưu đôi khi có thể được tính theo giá quốc tế, đối với hầu hết các nước nghèo, việc buôn bán quốc tế có tầm quan trọng rất lớn, vì thế nhiều DAĐT được chú trọng nhiều đến khía cạnh nhập và xuất khẩu, đặc biệt những mặt hàng thu hút được nguồn tài chính của các tổ chức viện trợ. Giá cả trong nước không phải là những chỉ số chính xác cho chi phí tối ưu do còn thuế nhập khẩu, tỷ giá hối đoái quá cao, các loại thuế gián tiếp, giá cả độc quyền và các hình thức can thiệp hành chính khác ảnh hưởng tới giá thị trường.
Ảnh hưởng của lạm phát đối với các phép tính toán thường được khắc phục bằng cách tính toán tất cả mọi giá trị theo đơn vị có giá trị thực tế ổn định, thời điểm gốc. Giả sử không có gì thay đổi về giá tương đối thì có thể tiến hành việc phân tích như thể không có lạm phát và có thể sử dụng giá trị ở thời điểm gốc trong quá trình tính toán.
Dịch vụ và hàng hóa sản xuất ra hoặc tiêu thụ trong dự án thuộc hai loại cơ bản. Những loại trao đổi và trao đổi được là những loại hàng hóa và dịch vụ được, hoặc có thể nhập hoặc xuất.Việc buôn bán những mặt hàng và dịch vụ này đang diễn ra trên thị trường quốc tế và có thể được tính về giá cả và xuất nhập khẩu. Những mặt hàng và dịch vụ không trao đổi và không trao đổi được là những loại không thể hoặc không được xuất hoặc nhập khẩu. Nếu chúng là đầu vào thì nguồn cung cấp ngay ở trong nước, nhưng nếu chúng là đầu ra thì cũng chỉ được bán ra ở thị trường trong nước mà thôi.
Cách tính giá trị lao động dùng trong dự án cũng quan trọng vì tiền lương thị trường không phản ánh được các chi phí tối ưu. Số người thất nghiệp hoặc không đủ việc làm rất lớn và tiền lương khu vực “chính quy” của nền kinh tế có thể được định ra một cách máy móc và cao hơn chi phí tối ưu.
- Về những ảnh hưởng không định lượng được hoặc ngoại vi
Nhiều tác động của dự án có thể không được tính thành số liệu được hoặc
mang tính hình thức ngoại kinh tế. Các tác động không được tính bằng số gồm
(i) những tác động được biết sẽ xảy ra nhưng không thể đo, đếm được về mặt vật chất và những tác động không thể đánh giá được. Những tác động này có thể ở bên trong hoặc ở bên ngoài dự án, các báo cáo dự án phải đề cập đến chúng, mô tả và nêu rõ mức độ của chúng.
Nhiều nhóm người trong xã hội không liên quan đến trực tiếp của dự án cũng chịu tác động bên ngoài của dự án, những tác động này mang nhiều hình thức khác nhau như: mối liên kết, các tác động cấp số nhân, quan hệ quốc tế,….và đôi khi rất quan trọng, mặc dù thường khó đưa chúng vào TĐDA. Các tác động môi trường là những hậu quả của dự án đối với môi trường và chúng cần phải đặc biệt chú ý trong giai đoạn thiết kế xây dựng dự án. Một số tác động
có thể nhìn thấy trước được thì cần phải nêu rõ trong dự án. Hiện nay đã có những kỹ thuật để định lượng một số tác động về môi trường.
- Về tỷ lệ chiết khấu
Việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu sẽ làm cho chi phí và lợi nhuận trong tương lai được tính theo (giá trị hiện tại).Tỷ lệ chiết khấu càng cao thì giá trị hiện tại của các chi phí và lợi ích tương lai càng thấp.
Tỷ lệ chiết khấu được áp dụng là tỷ lệ hoạch toán lãi suất (ARI) và đây chính là chi phí tối ưu trong khu vực nhà nước, ARI áp dụng cho các dự án đầu tư cấp nhà nước thường từ 8%-12%. Các mức lãi suất thống trị thị trường vốn trong nước cần phải được điều chỉnh đáng kể trước khi tỷ lệ hạch toán lãi suất này có thể được áp dụng.
- Về sử dụng phân tích chi phí lợi nhuận như một chỉ dẫn cho quyết định
Thẩm định kinh tế không thôi cũng chưa đủ để có thể đưa ra các quyết định về dự án mà phải áp dụng phương pháp phân tích chi phí, lợi nhuận để lựa chọn một phương án hợp lý hơn.Việc kiểm tra xem dự án có thể chấp nhận được trong quá trình thẩm định kinh tế phụ thuộc vào việc so sánh các chi phí lợi nhuận lớn hơn giá trị hiện tại của chi phí. Nói cách khác là phải có giá trị thực tế hiện tại.
Xử lý đối với các trường hợp không chắc chắn: phân tích cảm tính không thể tránh được những điểm thiếu chắc chắn trong khâu lập kế hoạch (một tình huống trong đó hàng loạt các ước tính về giá trị có thể được đưa ra nhưng lại không kèm những luận chứng hợp lý). Phân tích cảm tính xử lý vấn đề này bằng cách xem xét tác động đối với giá trị thực tế hiện tại của các biến thể trong một số giả thiết đưa ra khi phân tích.
Những biến thể chủ yếu cần được xem xét trong khi phân tích cảm tính là:
- Giá cả đầu ra chính, giá cả đầu vào chính, khối lượng như cầu.
- Mức sử dụng công suất trong cả giai đoạn XD và hoạt động lâu dài.
- Chi phí đầu tư, thời gian của giai đoạn đầu tư, tỷ lệ chiết khấu.
Phân tích cảm tính là bước đầu tiên trong việc đánh giá rủi ro của một dự án và việc sử dụng cách phân tích này cần phải trở thành một tiêu chuẩn trong việc phân tích DA.
Các yếu tố và cơ chế: Nhiều dự án có thể chấp nhận được về mặt kỹ thuật và kinh tế có thể lại không thực hiện được do hạn chế về cơ chế như cơ cấu tổ chức kém hiệu quả, thiếu các mục tiêu rõ ràng, khó khăn về nhân lực, thiếu thốn về kinh phí ….Vì thế cần phải thẩm định các cơ chế để đảm bảo rằng dự án có thể đứng vững trong bối cảnh cơ chế hiện tại.
1.3.4. Một số bài học cho các ngân hàng thương mại Việt nam
Qua kinh nghiệm thẩm định dự án đẩu tư của các tổ chức tín dụng quốc tế như: Ngân hàng Thế Giới; Viện kinh tế phát triển Havard và của các chuyên gia Liên Hợp Quốc chúng ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm về thẩm định dự án đầu tư đối với NHTM nói chung và VCB nói riêng như sau:
Một là, cần thống nhất cách hiểu về khái niệm thẩm định cho vay DAĐT
Thẩm định cho vay DAĐT là kiểm tra tính toàn diện các vấn đề của dự án xin cấp vốn, là một trong những giai đoạn chủ yếu của chu trình cho vay DAĐT và công tác thẩm định được tiến hành ngay từ giai đoạn đầu của quy trình cho vay.
Hai là,về mục đích và đối tượng thẩm định
Mục đích thẩm định không chỉ phục vụ cho việc ra quyết định mà còn phục vụ vho việc thẩm định, giám sát và đánh giá dự án. Với việc xác định rõ mục đích thẩm định và yêu cầu đặt ra đối với dự án, quy trình thẩm định còn có tính hướng đích rõ rệt và trở nên dễ hiểu, dễ sử dụng đối với những người cần thẩm định. Quy trình không chỉ bao gồm những chỉ dẫn về những điều cần thực hiện mà còn bao gồm những chỉ dẫn làm sâu sắc thêm nhận thức của người thẩm định và dành cho họ những cơ hội để đưa ra những sáng kiến nhằm nâng cao chất lượng của dự án.
Đối tượng thẩm định không chỉ bao gồm bản thân dự án và từng cấu phần của dự án mà còn bao gồm năng lực của cơ quan điều phối, thực hiện dự án. Các đoàn thẩm định thường quan tâm đến việc nâng cao năng lực của cơ quan điều phối, thực hiện dự án bằng những biện pháp đào tạo, hoàn thiện thể chế….
Ba là,về nội dung thẩm định
Quy trình, nội dung thẩm định của các tổ chức quốc tế dành một tỷ lệ lớn về cho các hướng dẫn về nội dung thẩm định bao gồm cả các hoạt động về cách thức phát hiện các vấn đề và cách thức xử lý các loại vấn đề được phát hiện trong quá trình thẩm định. Điều này cho phép hạn chế đáng kể sai sót trong thẩm định đồng thời tiết kiệm thời gian và hạn chế tranh cãi giữa các bên hữu quan.
Với các hướng dẫn về nội dung, quy trình thẩm định, người thẩm định có vai trò quan trọng.Vai trò này không chỉ ngăn chặn một cách thụ động những dự án không khả thi mà còn là vai trò chủ yếu góp phần nâng cao tính khả thi của dự án bằng những sáng kiến tích cực và năng động.
Bốn là,về quy trình tác nghiệp
Quy trình tác nghiệp được chia thành các bước khác nhau, trong đó bước trước tạo tiền đề thuận lợi cho các bước sau. Trong toàn bộ quá trình tác nghiệp có một số việc được lặp đi, lặp lại để đảm bảo tính cẩn trọng (chuẩn xác lại số liệu, hoàn thiện văn kiện dự án…).
Năm là, về thời hạn, tổ chức, nhân sự và kinh phí cho thẩm định
Thời hạn thẩm định phải đảm bảo quỹ thời gian cho toàn bộ quá trình thẩm định cho từng khâu của quá trình này đồng thời tạo điều kiện cho việc kiểm tra tiến độ thực hiện.
Tổ chức và nhân sự thẩm định theo quy trình phải là sự kết hợp giữa những yếu tố đảm bảo tính liên tục của quá trình thẩm định (có sự tham gia liên tục của Trưởng nhóm dự án và đại diện các cơ quan chức năng) và những yếu tố đảm bảo tính độc lập của quá trình thẩm định (có sự tham gia của các nhà tư vấn trong các bước khác nhau).
Tổ chức và nhân sự thẩm định theo quy trình phải tạo khả năng và đòi hỏi chia sẻ thông tin, chia sẻ quan điểm thẩm định trong suốt quá trình xác định dự án, chuẩn bị dự án, thẩm định dự án và do đó, nâng cao chất lượng thẩm định.
Kinh phí cho thẩm định được dự trù sát theo yêu cầu của từng trường hợp, đồng thời tránh được tình trạng tùy tiện.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về dự án đầu tư, cho vay dự án đầu tư và thẩm định cho vay dự án đầu tư. Nêu được vai trò quan trọng của thẩm định dự án đầu tư đối với khách hàng, đối với ngân hàng và nền kinh tế.
Hoạt động cho vay dự án đầu tư là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro bởi vì kết quả hoạt động của dự án đầu tư là không thể dự tính một cách khách quan tại thời điểm quyết định cho vay. Một dự án có được chuẩn bị, tính toán kỹ lưỡng đến đâu cũng không thể không thể lường hết những thay đổi của môi trường tác động vào dự án trong tương lai (thay đổi về thị trường, về các yếu tố đầu vào, sản phẩm đầu ra, lạm phát...). Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của cả người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên, nhận thức rõ ràng điều này, các NHTM cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi ro xảy ra là thấp nhất. Thông qua những đặc trưng của dự án đầu tư giúp NHTM có đựơc cái nhìn bao quát về mọi khía cạnh của dự án. Từ đó giúp cho quá trình phân tích, đánh giá, thẩm định dự án một cách cặn kẽ và chính xác để tìm ra phương pháp, biện pháp nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án. Chính những đặc trưng đó của dự án đầu tư đặt ra sự cần thiết phải thực hiện công tác thẩm định cho vay dự án đầu tư.
Từ việc làm rõ thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTM là hoạt động cần thiết khách quan thì các nội dung quan trọng kế tiếp của hoạt động thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTM được đề cập là: thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTM nhằm mục đích gì? Những đặc trưng riêng có nào của hoạt động cho vay dự án đầu tư của NHTM đã chi phối hoạt động thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTM? Những nội dung và công cụ nào của thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTM được đề cập trong chương 1 luận án?.
Nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTM, cũng cần chỉ ra những nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTM. Những
nội dung trong chương 1 nói trên là cơ sở lý luận cho việc đối chiếu, đánh giá thực tế việc thẩm định cho vay dự án đầu tư của ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt nam thời gian qua được trình bày trong chương 2 và các giải pháp đưa ra ở chương 3 nhằm hoàn thiện công tác thẩm định cho vay dự án đầu tư của NHTMCP Ngoại thương Việt nam thời gian tới.
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG
VIỆT NAM
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần
ngoại thương Việt nam
VCB tiền thân là Sở Quản lý Ngoại hối thuộc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập ngày 20/01/1955 theo Nghị định 443/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Năm 1961, Sở Quản lý Ngoại hối được đổi tên thành Cục Ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Nghị định 171/CP ngày 26/10/1961 của Hội đồng Chính phủ.
Giai đoạn 1963 - 1975
Ngày 01/04/1963, VCB chính thức khai trương hoạt động theo Nghị định số 115/CP ngày 30/10/1962 do Hội đồng Chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra từ Cục Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Để tiếp nhận nguồn vốn viện trợ ngoại tệ, tháng 4/1965 theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập một tổ chức chuyên trách nghiệp vụ thanh toán đặc biệt với bí danh B29 tại VCB.
Giai đoạn 1976 - 1990
Thời kỳ này, VCB đã trở thành Ngân hàng Đối ngoại duy nhất của Việt Nam trên cả 3 phương diện: nắm giữ ngoại hối của quốc gia, thanh toán quốc tế, cung ứng tín dụng xuất nhập khẩu. Sau 1975, VCB tiếp quản hệ thống ngân hàng của chế độ cũ, tham gia đàm phán, giảm, hoãn thành công nợ Nhà nước tại Câu lạc bộ Paris, London.
Giai đoạn 1991 - 2007
VCB đã chính thức chuyển từ Ngân hàng chuyên doanh Đối ngoại trở thành một NHTM Nhà nước có hệ thống mạng lưới trên toàn quốc và quan hệ ngân hàng đại lý trên khắp thế giới.
VCB cũng là Ngân hàng đầu tiên triển khai và hoàn thành Đề án Tái cơ cấu (2000 - 2005) mà trọng tâm là nâng cao năng lực tài chính, quản trị điều hành, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, đóng góp cho sự ổn định và phát triển kinh tế, đồng thời tạo dựng uy tín đối với cộng đồng tài chính khu vực và toàn cầu.
Giai đoạn 2008 - 2014
Năm 2007, VCB tiên phong cổ phần hóa trong ngành ngân hàng và thực hiện thành công kế hoạch phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Ngày 02/06/2008, VCB đã chính thức hoạt động theo mô hình NHTM Cổ phần.
Tính đến hết năm 2014, bên cạnh Hội sở chính Vietcombank hiện có 01 SGD và 79 Chi nhánh với 333 Phòng giao dịch hoạt động tại 47/63 tỉnh thành phố trong cả nước. Mạng luới hoạt động phân bổ: Bắc Trung bộ 10%, Ðông Bắc bộ 7,5%, Ðồng bằng sông Hồng (bao gồm Hà Nội) 22,5%, Ðông Nam bộ và Tp. Hồ Chí Minh 25%, Duyên hải Nam Trung bộ 13,75%, Tây Nam bộ 16,25%, Tây Nguyên 4%. Vietcombank còn có hơn 1.800 Ngân hàng đại lý tại hơn 155 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới.