Giới Thuyết Về Bút Pháp Hiện Thực - Lãng Mạn, Hiện Thực - Lãng Mạn, Kỳ Ảo


Vợ chồng Bần trong Chiếc nón mê thủng chóp may mắn trúng cổ phiếu mà được đổi đời. Có tiền Bần liền mua ngay nhà thành phố, đưa hết vợ con ở quê lên. Vợ Bần xưa nay chân lấm tay bùn, làm lụng vất vả, người thô kệch: “Vợ tôi chân cũng to, mông càng to” do “lội ruộng trũng nhiều, gồng gánh lắm nên phát triển chiều ngang”. Thế nhưng vợ Bần thích nghi với cuộc sống mới rất nhanh. Lên thành phố chưa lâu chị đã biết ăn diện, dùng toàn đồ sang: “thích diện váy ngủ màu hồng, sức nước hoa hiệu Chanel”, biết lang thang trong thế giới mạng, đi nhảy vũ trường, trở nên “trơn lông đỏ da”, “mắt lung liếng”. Một người đàn bà trước đây quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, không đi khỏi lũy tre làng nay muốn giũ bỏ tất cả dấu vết nông dân, chối bỏ quá khứ, chối bỏ gốc gác của mình để trở thành người Hà Nội. Những nhân vật này trên trang viết của Sương Nguyệt Minh gợi người ta nhớ đến nhân vật “Ông tây An Nam” của Nam Xương, nhân vật Tâm (Trở về) của Thạch Lam trước đây. Có thể thấy, các nhà văn giàu trách nhiệm với đời thường trăn trở về những nghịch lý của cuộc sống và bất bình trước tình trạng “mất gốc” của con người.

Khi viết về nhân vật “dở quê dở phố”, Sương Nguyệt Minh thể hiện một cái nhìn đầy cảm thông với những con người là nạn nhân của hoàn cảnh. Trước sự xâm nhập của cái mới, họ đã không tránh khỏi những va vấp và Sương Nguyệt Minh đứng ở “phe nước mắt” để cảm thông với những va vấp ấy của họ. Tuy phần lớn thời gian nhà văn sống ở thành phố nhưng có lẽ sự am hiểu về cuộc sống nông thôn của ông (kể cả khi nông thôn ấy đang chuyển mình thành những “phố làng, phố chợ”) vẫn tường tận, sâu sắc. Viết về người nông dân, ông luôn dành sự quan tâm đặc biệt, có lẽ trong thế giới đầy bất ổn này họ là những con người nhỏ bé, dễ bị chèn ép, chịu nhiều thua thiệt nhất. Bị bó buộc trong lũy tre làng, nhận thức còn hạn chế nên cuộc sống của người dân rơi vào tình cảnh bế tắc, quẩn quanh, muốn vùng vẫy để thoát ra


mà không sao thoát ra được. Đến khi làn gió đô thị hóa tràn về, tưởng chừng sẽ mang lại cho họ một sự đổi đời nhưng lại vô tình đẩy họ rơi vào những bi kịch mới do mặt trái của nó gây ra. Là một nhà văn nặng lòng với quê hương, Sương Nguyệt Minh luôn hướng ngòi bút về nơi mình sinh ra và lớn lên. Tính cảm đó đều được ông gửi gắm vào trang viết. Qua những bức tranh về cuộc sống con người ở làng quê và đô thị Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới với cả những gam màu sáng tối, Sương Nguyệt Minh đã mang đến cho người đọc những nhận thức và cảm xúc mới.

Khi đọc sáng tác của Sương Nguyệt Minh, nhà văn Văn Chinh đã nhận xét: “Con người bị bứng ra khỏi gốc quê, dù tự nguyện hay chỉ như một lối thoát, thì lập tức nó gặp ngay cái vòng xoáy, cái cơn lốc thời đại mà không một dân tộc nào tránh khỏi nếu muốn công nghiệp hóa, đô thị hóa” [10] và: “nhà văn đứng ở “phe nước mắt” để phán xét cái nghiệt ngã thị trường, nhưng nếu không cẩn thận, anh sẽ tước bỏ lối thoát của nước mắt” từ đó ông cho rằng: “bản lĩnh nhà văn của Sương Nguyệt Minh là nhìn thấu cái tất yếu, tôn trọng nó trong khi vẫn không nguôi nỗi xót xa thương cảm”. Có lẽ vì vậy, khi đọc truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh, chúng ta có cảm giác vừa ấm áp lại vừa xót xa, day dứt.

Trên hành trình sáng tác, từ chỗ chủ yếu viết về người lính, người nông dân, Sương Nguyệt Minh đã mở rộng dần đến những nhân vật “dở quê dở phố”, rồi ngược dòng thời gian để viết về các nhân vật lịch sử. Chính sự vận động này đã làm nên dấu ấn đặc trưng trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Không phải tất cả những tìm tòi thể nghiệm về nhân vật của nhà văn đều thành công mỹ mãn, song ông đã làm được điều mà mình tâm niệm: “nhà văn phải khác biệt”.


Chương 3

SỰ VẬN ĐỘNG VỀ BÚT PHÁP NGHỆ THUẬT

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

(Từ hiện thực - lãng mạn truyền thống đến hiện thực - lãng mạn và kỳ ảo)


Sự vận động trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh - 9

3.1. Giới thuyết về bút pháp hiện thực - lãng mạn, hiện thực - lãng mạn, kỳ ảo

Theo từ điển Thuật ngữ văn học, “bút pháp là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó” [20, tr.21]. Bút pháp nghệ thuật làm tăng hiệu quả phản ánh của tác phẩm và góp phần làm nên phong cách nhà văn.

Từ lâu, việc sử dụng bút pháp hiện thực, bút pháp lãng mạn hoặc có sự kết hợp giữa hai loại bút pháp này đã trở nên khá quen thuộc trong văn học. Bút pháp hiện thực coi trọng những tư liệu, sự kiện có thật ở ngoài đời và dùng chúng làm chất liệu để xây dựng cốt truyện, nhân vật, tính cách nhân vật, các hiện tượng tâm lý với nghệ thuật khái quát hóa, điển hình hóa cao và nghệ thuật phân tích tâm lý, tư tưởng sâu sắc; từ đó cung cấp cho người đọc một bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống và con người.

Bút pháp lãng mạn chủ yếu dựa vào tình cảm, ước mơ, trí tưởng tượng của nhà văn. Thực tiễn cuộc sống do đó cũng thông qua cảm nhận chủ quan và khát vọng riêng tư của nhà văn để biểu hiện, chứ không dựa hẳn vào thực tại khách quan. Sử dụng bút pháp này, nhà văn coi trọng sản phẩm của trí tưởng tượng, xây dựng nhân vật mang tính lý tưởng, ngôn ngữ và giọng điệu giàu cảm xúc.

Gần đây, với sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo, trong văn học xuất hiện rất nhiều nhà văn sử dụng yếu tố kỳ ảo như một phương tiện nghệ thuật để khám phá đời sống tâm linh hết sức trừu tượng, khó nắm bắt ở con người. Phùng Hữu Hải trong bài “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau


1975” cho rằng yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam cần được nhìn nhận trên cả hai phương diện vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, “yếu tố kỳ ảo thể hiện một quan niệm mới của nhà văn về thế giới, là sự mở rộng và chiếm lĩnh hiện thực hết sức sinh động”. Còn ở tầm vi mô, “yếu tố kỳ ảo chính là các hình thức nghệ thuật cụ thể như: đối thoại tâm linh, cổ tích hóa, liêu trai hóa, tôn giáo hóa, huyền thoại hóa…” [19]. Bút pháp kỳ ảo coi trọng các yếu tố kỳ ảo, sử dụng nhiều chất liệu kỳ ảo và các thủ pháp nghệ thuật tạo chất kỳ ảo cho tác phẩm.

Xung quanh khái niệm, tên gọi của yếu tố kỳ ảo đến nay vẫn chưa thật thống nhất. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, bắt nguồn từ văn học dân gian. Nó thường nằm ngoài tư duy lí tính của con người nhưng lại có mối quan hệ với bản chất của cái có thật trong đời sống. Yếu tố kì ảo góp phần cùng với các yếu tố nghệ thuật khác để xây dựng cốt truyện, nhân vật hướng đến việc bộc lộ chủ đề tư tưởng tác phẩm.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc phân chia ranh giới giữa bút pháp hiện thực, lãng mạn và kỳ ảo chỉ mang tính chất tương đối. Bởi giữa chúng vẫn có sự giao thoa, đan xen vào nhau khi thực hiện chức năng biểu hiện, phản ánh trong văn học. Đặc biệt là, khi phạm vi hiện thực không còn bị bó hẹp trong phạm vi hiện thực đời sống, đối tượng phản ánh mở rộng đến cả hiện thực trong đời sống tâm lý, tâm linh của con người.

Hiện nay, rất ít nhà văn chỉ sử dụng một bút pháp trong sáng tác. Phần lớn họ sự kết hợp, sử dụng nhiều bút pháp nhằm làm tăng hiệu quả phản ánh, làm nổi bật tư tưởng tác phẩm. Sự kết hợp này cũng nhằm phát huy thế mạnh của từng loại bút pháp, bởi chúng ta không thể khẳng định có một bút pháp nghệ thuật nào là tối ưu trong việc phản ánh đời sống. Bút pháp hiện thực sẽ phát huy rất tốt lợi thế của mình khi đi vào tái hiện bức tranh đời sống, phê


phán, tố cáo, phanh phui cái xấu, những tiêu cực trong xã hội. Khi đi vào miêu tả những vấn đề thuộc về đời sống tâm lý, tình cảm thì bút pháp lãng mạn hoặc kỳ ảo lại tỏ ra hiệu quả hơn. Hiện thực quá rộng lớn, cho nên các nhà văn thường phải sử dụng kết hợp nhiều loại bút pháp nghệ thuật khác nhau để đạt được mục đích nghệ thuật của mình. Sương Nguyệt Minh cũng đã sử dụng bút pháp nghệ thuật rất linh hoạt, và đặc biệt là bút pháp nghệ thuật của nhà văn có sự vận động rõ rệt từ bút pháp hiện thực - lãng mạn đến bút pháp hiện thực - lãng mạn - kỳ ảo.

3.2. Từ bút pháp hiện thực – lãng mạn…

Sở trường của Sương Nguyệt Minh là viết về chiến tranh và nông. Trong bức tranh hiện thực ấy có những trang viết đầy thơ mộng về thiên nhiên, tình yêu đôi lứa. Khi viết về chiến tranh, nhà văn không chỉ tái hiện một cách chân thực sự khốc liệt của cuộc chiến cùng với những di họa của nó mà còn lựa chọn các chi tiết, hình ảnh, giọng điệu, ngôn ngữ tạo chất trữ tình, lãng mạn cho tác phẩm. Vì vậy, hầu hết những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh và nông thôn của Sương Nguyệt Minh vừa mang tính hiện thực, vừa đậm chất lãng mạn.

Có thể thấy rõ sự kết hợp bút pháp này trong truyện ngắn Đêm làng trọng Nhân. Truyện viết về một người cựu chiến binh Mỹ trở lại Việt Nam. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng người Mỹ từng đi qua cuộc chiến tranh ở Việt Nam vẫn không cắt nghĩa được vì sao mình là kẻ chiến bại? Câu hỏi đó đã thôi thúc Giôn Mắc Cơ trở lại Việt Nam tìm bằng được câu trả lời. Chuyến đi thăm này, ông đã may mắn được nhà văn Lê Xuân – một người đã từng có mặt ở miền Đông trong những ngày khói lửa, giúp ông trả lời câu hỏi ấy bằng truyện ngắn Đêm làng Trọng Nhân. Truyện ngắn này có giá trị hơn hàng chục cuộc hội thảo, hàng ngàn trang tài liệu cùng nhiều bộ phim về Việt Nam mà Giôn Mắc Cơ đã từng xem. Nó cho ông hiểu được đất nước, con người nơi đây và vì sao đất nước này lại chiến thắng.


Trong chiến tranh, người dân phải chịu vô vàn hiểm nguy, vất vả nhưng trên tất cả những nỗi đau riêng ấy là nỗi đau chung của dân tộc. Đất nước đứng trước thảm họa bị kẻ thù thôn tính, họ đã biết sống, biết hy sinh những gì riêng tư nhất cho Tổ quốc quyết sinh.

Tường và Thương cùng với bao đôi trai gái, vợ chồng thời đó đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc: “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Những tưởng sau bao năm xa cách họ sẽ được sống trong niềm vui đoàn viên nhưng chiến tranh một lần nữa lại ngăn cản sự sum họp này. Bút pháp hiện thực được nhà văn sử dụng khi miêu tả khuôn mặt đầy thương tích của Tường: “nham nhở, gồ ghề, méo mó, mất cảm giác”. Nhìn gương mặt mình trong gương chính anh cũng không nhận ra nổi mình. Đây chính là rào cản mà chiến tranh đã gây ra để ngăn cản sự đoàn viên của Tường. Anh mặc cảm đến nỗi phải thay tên, đổi họ chỉ vì không muốn bố mẹ, vợ khiếp sợ trước dung nhan kỳ quái của mình. Mặc dù không muốn làm tổn thương ai nhưng Tường cũng không giấu được khát khao, niềm mong mỏi được trở về nhà gặp bố mẹ, gặp Thương – vợ anh. Những câu văn miêu tả cảnh đoàn viên khiến người đọc vô cùng xúc động. Trên con đường trở về, Tường đã hình dung ra cảnh gặp lại bố mẹ, gặp lại vợ, và nghĩ sẽ làm gì để khiến mọi người bất ngờ trước sự trở về của mình: “Gặp mẹ như thế nào nhỉ. Anh sẽ chạy nhanh đến ôm chầm lấy mẹ. Không! Anh sẽ hiu hiu nhắm mắt, hai tay đưa về trước đi dò dẫm trong sân. Cũng không! Nhìn thấy mẹ anh sẽ ngã mất. Phải rồi! Anh sẽ gập một chân lại, mặc quần rồi chống gậy tập tễnh vào nhà…” [26, tr.139]. Còn với Thương, anh cũng nghĩ ra nhiều cách để khiến người vợ yêu quý ngạc nhiên và hạnh phúc: “Anh sẽ đeo ba lô đứng chờ bên cửa buồng. Không! Anh sẽ nằm sẵn trong giường úp mặt vào trong. Thương mở cửa buồng bước vào. Em nằm xuống. Anh xoay người ôm chặt lấy Thương: “Anh đây! Tường của em đây” [26, tr.140].


Bút pháp lãng mạn không chỉ thể hiện qua những trang viết đầy chất thơ khi nhà văn miêu tả cảm xúc của Tường khi gặp lại người thân mà còn thể hiện trong cách xây dựng các nhân vật đạt mức lý tưởng: với Thương là vẻ đẹp nhan sắc bất chấp thời gian; với Tường là sự hy sinh cao đẹp vì đất nước và những người mà anh yêu thương. Nhìn vợ tắm, Tường khát khao biết mấy cảnh hạnh phúc ái ân. Thấy vợ nằm một mình trằn trọc trong buồng còn mình đang nằm bên bố, anh nhận ra một điều thật vô lý: “Vô lý thật! Tại sao anh lại nằm bên bố. Không! Chỗ anh nằm trong kia mới phải” [26, tr.148]. Tuy vậy, Tường vẫn phải kìm nén tình cảm, kìm nén nỗi khát thèm bản năng của mình. Chiến tranh đã dập tắt phũ phàng ước mơ đoàn tụ và ngăn cách anh với gia đình. Tường đành chấp nhận thiệt thòi về mình: gặp lại cha mẹ, vợ chỉ một đêm rồi một lần nữa lại ra đi để người thân được hạnh phúc… Có lẽ không chỉ riêng Tường mà cả dân tộc ta từ ngàn xưa luôn có đức tính hy sinh, luôn biết sống vì người khác. Chính sự hy sinh cao cả đó là sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, giúp dân tộc ta hết lần này đến lần khác chiến thắng kẻ thù. Ngày xưa, quân Nguyên Mông hung hãn “đi đến đâu là cỏ không mọc được”, bao dân tộc đã phải cúi đầu khuất phục, vậy mà đến nước ta chúng phải khiếp sợ đầu hàng. Nay thì ta chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ - hai đế quốc hùng mạnh. Để có được những chiến thắng ấy một phần do tài mưu lược của người chỉ huy nhưng một phần là nhờ tinh thần đoàn kết, đức hy sinh của người dân nước Việt.

Giôn Mắc Cơ sau khi đọc truyện ngắn Đêm làng Trọng Nhân đã tìm được câu trả lời thỏa đáng cho mình: “Các ông đi qua cuộc chiến tranh bằng chính tâm hồn các ông, tâm hồn con người Việt Nam. Bây giờ tôi mới cắt nghĩa được vì sao nước Mỹ thua. Bởi nước Mỹ không bao giờ có được một đêm như vậy: Đêm làng Trọng Nhân” [26, tr.151]. Sự kết hợp giữa một bên là hiện thực chiến tranh với một bên là khát vọng tình yêu trong tâm hồn người lính; và


bằng sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn, Sương Nguyệt Minh đã làm nổi bật sức tàn phá của chiến tranh lên thân phận con người, đồng thời thể hiện sức sống mãnh liệt của tình yêu trước bom đạn kẻ thù.

Chiến tranh tuy ác liệt nhưng không vì thế mà tình yêu thời chiến bớt đi vẻ đẹp lãng mạn. Giữa một vùng trời đầy bom đạn, Hiên – một cô bé đang đi học chuẩn bị ôn thi vào đại học đã gặp Hoàng – người lính pháo cao xạ trong túp lều dưới một chiều mưa đầy lãng mạn (Dòng sông Trinh Nữ). Họ quen nhau rồi yêu nhau khi nào không biết, để rồi Hiên cứ ngóng trông sự trở lại của Hoàng. Truyện ngắn Dòng sông Trinh Nữ cũng đã có sự kết hợp của hai loại bút pháp hiện thực và lãng mạn. Trong ánh mắt của người đang yêu, khung cảnh thiên nhiên lúc chiến tranh ác liệt cũng trở nên đẹp đẽ lạ thường: “Máy bay giặc cháy rơi ở phía cầu Lai Hạ. Từ bến sông Trinh, Hiên nhìn lên bầu trời bàng bạc. Một đốm lửa treo lơ lửng. Không! Một bó đuốc đang bùng cháy. Hiên thấy nước dòng sông loang loáng. Máy bay rơi càng thấp, lửa càng bốc to hơn. Đột nhiên Hiên buột miệng reo lên: “Đẹp quá! Như bình minh trên sông” [26, tr.19]. Những phút giây lãng mạn ấy, dường như đã làm cho chiến tranh bớt khốc liệt, con người cũng bớt căng thẳng hơn, có thể tạm quên đi nỗi sợ hãi trước cái chết. Bầu trời vừa im tiếng súng là Hiên và Hoàng lại tìm đến với nhau, những lúc như vậy chiến tranh như lùi xa, chỉ còn có hai người với nhau, hạnh phúc và bình yên: “Anh đội mũ sắt, đứng sừng sững bên lều cỏ. Hiên nhận ra, cô nhào vào lòng người lính. Hiên cảm nhận được mùi mồ hôi lẫn mùi thuốc đạn ở ngực áo anh. Họ đã đi tìm nhau khi trận địa vừa im tiếng súng” [26, tr.20]. Thiên nhiên như đang che chở cho đôi tình nhân, tôn lên tình yêu của họ: “Trăng mười bảy treo lơ lửng ở đỉnh đầu. Một màu vàng bát ngát mênh mang. Sông nước trời mây lồng lộng. Sóng lấp lánh ánh vàng, gió nồm nam mơn man trên ngực. Hiên cựa mình thấy dằm dặm. Ôi hoa cỏ may trên áo anh” [26, tr.20].

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 18/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí