Thực Hiện Phân Loại Nợ Và Trích Lập Dự Phòng Rủi Ro Đầy Đủ Và Chính Xác Phản Ánh Đúng Tình Trạng Nợ Của Mỗi Ngân Hàng Thương Mại


Hoặc đối với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực xây lắp thì việc kiểm tra thực tế lại có tính hiệu quả cao bởi thông qua quá trình kiểm tra thực tế, ngân hàng có thể nắm được tiến độ thực hiện dự án, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay và từ đó đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng.

3.2.2.6 Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ và chính xác phản ánh đúng tình trạng nợ của mỗi ngân hàng thương mại

Thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro là giải pháp để giúp các NHTM xây dựng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng nhằm mục đích bù đắp tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra. Hiện tại, hệ thống phân loại nhóm nợ tại một số NHTM Việt Nam được thực hiện theo kết quả chấm điểm xếp hạng tín dụng. Công tác chấm điểm được thực hiện định kỳ hàng quý (đối với KHDN) và định kỳ 6 tháng/lần đối với KHCN. Hiên tại công tác chốt nhóm nợ để trích lập dự phòng được thực hiện định kỳ hàng tháng căn cứ theo kết quả xếp hạng tín dụng đã được phê duyệt đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế của khoản vay; khả năng thu hồi của khoản vay. Để có được kết quả chính xác nhất, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Khối Quản trị rủi ro và các đơn vị kinh doanh nhằm nắm bắt kịp thời thông tin, phản ảnh chính xác tình trạng nợ của khách hàng, trên cơ sở đó thực hiện trích lập dự phòng đầy đủ.

3.2.3. Nhóm giải pháp phân tán rủi ro tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế

tổn thất tín dụng

Lĩnh vực kinh doanh ngân hàng được xác định là kinh doanh rủi ro vì vậy rủi ro xảy ra là điều khó tránh khỏi, vấn đề là làm thế nào để tối thiểu hóa những tổn thấy khi rủi ro phát sinh nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận. Trong quản trị rủi ro ngân hàng thương mại nói chung, quản trị rủi ro tín dụng nói riêng việc phân tán rủi ro là một yêu cầu cần thiết và phải được thực hiện một cách khoa học dựa trên các nguyên tắc sau:

­ Đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng và danh mục khách hàng

Đây là biện pháp tốt nhất, chủ động nhất trong việc phân tán rủi ro tín dụng, theo đó trong quá trình kinh doanh các NHTM cần xây dựng nhiều loại hình đầu tư tín dụng, nhiều ngành nghề khác nhau cũng như nhiều khách hàng ở những địa bàn khác nhau, dựa trên nguyên tắc thống nhất không tập trung tín dụng quá lớn cho một khách,


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

một nhóm khách hàng. Đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng vừa mở rộng được phạm vi hoạt động tín dụng của ngân hàng, vừa phát triển được các sản phẩm bán chéo, sản phẩm về dịch vụ phụ, vừa đạt được mục đích phân tán rủi ro. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này các NHTM cần vạch ra được một số chiến lược kinh doanh thích hợp với từng giai đoạn phát triển của NHTM.

­ Việc đa dạng hóa các danh mục đầu tư tín dụng nhằm tạo ra nhiều sản phẩm tín dụng để cho vay vào nhiều đối tượng khách hàng, nhiều ngành nghề kinh tế khác nhau sẽ tránh được sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần trong phạm vi hẹp của một số ngành đang phát triển cũng như tránh gặp phải rủi ro do những chính sách của Nhà nước với mục đích hạn chế hoạt động của một số ngành nghề nhất định trong kế hoạch cơ cấu lại một số ngành nghề kinh tế.

Giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 19

­ Tránh cho vay quá nhiều đối với một khách hàng, luôn tuân thủ việc đảm bảo một tỷ lệ cho vay nhất định trong tổng số vốn hoạt động của khách hàng để tránh sự ỷ lại và rủi ro bất ngờ của khách hàng đó. Hiện nay, ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hàng quy chế cho vay theo QĐ số 1627/2001/QĐ-NHNN trong đó có quy định tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trong trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng được xác định đúng và vượt quá 15% vốn tự có của một NHTM hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các NHTM cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

­ Sản phẩm tín dụng phải được xây dựng dựa trên định hướng chiến lược nhất định, đó là khi cho khách hàng vay phải đảm bảo việc cấp tín dụng của NHTM có nhiều kỳ hạn khác nhau đảm bảo sự cân đối giữa số vốn cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đảm bảo sự phát triển vững chắc và tránh rủi ro tín dụng do sự thay đổi lãi suất thị trường, tránh rơi vào trạng thái khủng hoảng về thanh khoản do mất cân đối về nguồn vốn.

­ Bên cạnh đó, việc cho vay giữa các loại đồng tiền khách nhau cũng phải xác định

một tỷ lệ thích hợp giữa cho vay bằng VNĐ và cho vay bằng ngoại tệ đảm bảo đáp


ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng tránh được rủi ro tín dụng do sự thay đổi tỷ

giá hối đoái.

Biện pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư như đã nói ở trên có ưu điểm là giúp ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng một cách chủ động nhất. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa danh mục đầu tư tín dụng cần tránh rơi vào trạng thái quá mức, điều này cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định trong công tác quản trị như là: làm cho việc quản trị trở nên tốn nhiều công sức trong việc giám sát, thẩm định, phân tích, đánh giá khách hàng, dẫn đến tăng chi phí kiểm tra, giám sát và làm giảm bớt cơ hội đạt lợi nhuận.

+ Cho vay đồng tài trợ

Trên thực tế, những doanh nghiệp có những nhu cầu vay vốn rất lớn mà một ngân hàng không thể đáp ứng được, đó thường là nhu cầu đầu tư cho các dự án lớn và khó xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp này, các ngân hàng cùng nhau liên kết để thẩm định dự án, cho vay và chia sẻ rủi ro đám bảo quyền lợi và nghĩa vụ mỗi bên.

Đây là một hình thức tín dụng chưa thực sự phổ biến đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Một phần do sự phức tạp của hình thức này, một phần còn do vướng mắc trong việc thỏa hiệp giữa các ngân hàng về quyền lợi và trách nhiệm trong khi liên kết nhưng giải pháp cho vay hợp vốn thực sự là một giải pháp chia sẻ rủi ro cho các NHTM

Hiện nay Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ra quy chế về vấn đề cho vay đồng tài trợ là tiền đề cơ sở về mặt pháp lý cho việc xúc tiến hoạt động đó. Để thực hiện có hiệu quả hình thức tín dụng này, các ngân hàng phải có ý thức hợp tác, đồng thời cần phải có một ngân hàng chủ trì cho việc thỏa hiệp giữa họ, vai trò này có thể giao cho Ngân hàng Nhà nước hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc thành phố thực hiện.

+ Bảo hiểm tín dụng

Trong đời sống xã hội, "bảo hiểm" là một khái niệm thường gặp dùng để chỉ một trong những biện pháp hữu hiệu để phân tán rủi ro. Bảo hiểm tín dụng cũng là một biện pháp quan trọng nhằm san sẻ rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Bảo hiểm tín dụng có thể thực hiện dưới các hình thức như: Bảo hiểm cho hoạt động cho vay, bảo hiểm hoạt động kinh doanh của người đi vay, bảo hiểm tài sản đảm bảo,


bảo hiểm tiền vay, bảo hiểm các rủi ro liên quan đến người đi vay, người bảo lãnh. Có thể học hỏi một số hình thức bảo hiểm mà các nước đã thực hiện như sau:

­ Khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm tín dụng. Khi mà khách hàng rơi vào tình trạng thất nghiệp, phá sản, tai nạn,… không có khả năng trả nợ vay cho ngân hàng thì công ty bảo hiểm sẽ trả. Đây là biện pháp quản trị rủi ro tín dụng cần quan tâm, đặc biệt trong điều kiện hoạt động của các ngân hàng Việt Nam. Cho đến nay, chỉ có một số ít ngân hàng Việt Nam sử dụng bảo hiểm tín dụng để quản lý phòng ngừa rủi ro cho mình và đặc biệt là cho khách hàng.

­ Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp và sẽ được bồi thường thiệt hại nếu gặp rủi ro gây tổn thất đối với vốn tín dụng.

­ Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay thông qua việc mua bảo hiểm hỏa hoạn, bảo

hiểm do thiên tai…


Ưu điểm của biện pháp sử dụng bảo hiểm tín dụng là khi rủi ro tín dụng xảy ra thì nó có thể khắc phục một cách tốt nhất hậu quả của rủi ro đó, tuy nhiên, nhược điểm của biện pháp này là do phải đóng một khoản phí bảo hiểm trước mắt trong khi đó nhiều người lại có xu hướng coi trọng lợi ích trước mắt hơn lợi ích lâu dài, thêm vào đó, ngành bảo hiểm nước ta cũng chưa thực sự phát triển đạt đến mức độ tạo dựng được niềm tin cho khách hàng nên nhiều khách hàng cũng như ngân hàng không mấy hứng thú trong việc mua và sử sụng bảo hiểm tín dụng. Để khắc phục nhược điểm này, các NHTM có thể thành lập tổ chức chuyên làm nghiệp vụ mua bán bảo hiểm liên quan đến nghiệp vụ tín dụng cho khách hàng và cho chính các NHTM.

+ Hình thành thị trường mua bán nợ

Sau khi các NHTM cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, các NHTM cần lập danh sách các khoản nợ là tài sản được đánh giá có rủi ro ở mức độ cao và bán cho các nhà đầu tư khác để chuyển đổi sở hữu khoản nợ nhằm quản lý và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Theo quan điểm của các nhà đầu tư hoặc các quỹ đầu tư mạo hiểm tại thị trường mua bán nợ, việc mua một phần hoặc toàn bộ giá trị của khoản nợ này là tương đối hấp dẫn vì việc mở rộng danh mục đầu tư thông qua nhiều khoản vay sẽ làm giảm rủi ro tín dụng nói chung và làm tăng các khoản thu nhập từ các khoản nợ đã mua nếu


việc kiểm soát và xử lý các rủi ro tín dụng có thể theo đúng qui trình chấp nhận biên độ rủi ro đã được định sẵn.

Như vậy, để quản trị rủi ro tín dụng, các NHTM, các nhà đầu tư có thể sử dụng các phương thức như nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát tốt việc quản trị tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, bảo hiểm, phân tán rủi ro tín dụng tài sản của rủi ro tín dụng với các tài sản khác và bán các phần của nó cho các nhà đầu tư bên ngoài. Những phương thức như vậy có thể làm giảm rủi ro tín dụng của các NHTM hoặc nhà đầu tư dựa trên nguyên tắc những rủi ro tín dụng có thể được chia sẻ cho nhiều người sở hữu mới. Tuy nhiên việc sử dụng các công cụ này có những hạn chế, cụ thể:

­ Việc áp dụng những thủ tục cấp tín dụng quá chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng tín dụng dẫn đến người vay trở lên khó khăn hơn trong việc tiếp nhận vốn tín dụng, điều này sẽ làm mất cơ hội đầu tư của tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư.

­ Việc trích lập dự phòng rủi ro thường đặt ra những yêu cầu về tài chính đối với các tổ chức tín dụng. Trong khi bảo hiểm rủi ro tín dụng lại đặt ra những yêu cầu về tài chính đối với người nhận nợ. Do vậy, cả hai phương thức hoặc làm giảm khả năng cân đối và điều hành vốn khả năng của tổ chức tín dụng hoặc làm tăng chi phí vay vốn của người vay, dẫn đến tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc mở rộng tín dụng và không thực hiện được chính sách khách hàng

Để cho giải pháp về thị trường mua bán nợ khắc phục được những hạn chế trên và trở thành công cụ hiệu quả trong quản trị rủi ro tín dụng, tác giả đề nghị NHTM cần phối hợp xây dựng chính sách tín dụng linh hoạt cho các khoản vay có sử dụng việc mua bán nợ trên cơ sở cân bằng giữa lợi nhuận thu được và biên độ rủi ro tín dụng chấp nhận.

3.2.4 Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách quản trị rủi ro tín dụng theo các

chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong quản trị ngân hàng thương mại

+ Hoàn thiện hệ thống thông tin đánh giá khách hàng

Hệ thống thông tin khách hàng, thông tin tín dụng, thông tin lịch sử giao dịch khách hàng có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý chất lượng hoạt động tín dụng và các yếu tố rủi ro tín dụng liên quan đến khách hàng. Việc xây dựng hệ thống thông


tin của khách hàng có ý nghĩa thiết thực trong việc trợ giúp các NHTM trong các khâu kiểm soát rủi ro tín dụng bao gồm toàn bộ quá trình từ khi thẩm định khách hàng, cho vay, theo dõi nợ đến việc xử lý nợ có vấn đề nếu có. chính tầm quan trọng này nên các NHTM cần xây dựng một bộ phận chuyên trách xây dựng, theo dõi, cập nhật thông tin để phục vụ cho nhu cầu từng NHTM nói riêng và toàn hệ thống NHTM nói chung.

+ Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng

Nâng cao chất lượng tín dụng là một trong nhưng biện pháp quản trị rủi ro tín dụng tốt nhất trong công tác quản trị rủi ro tín dụng của NHTM. Tuy nhiên, để thực hiện được việc nâng cao chất lượng tín dụng các NHTM cần phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng khoa học, phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Hệ thống xếp hạng tín dụng phải đầy đủ và bao gồm hai nhóm tiêu chí là:

Nhóm tiêu chí tài chính gồm các yếu tố sau: Vốn điều lệ, vốn pháp định, doanh thu thuần, các chỉ tiêu năng lực hoạt động (vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu nợ bình quân) , chỉ tiêu cân nợ (hệ số nợ/ vốn chủ sở hữu, hệ số nợ / tổng tài sản), chỉ tiêu hiệu quả hoạt động (lợi nhuận trước thuế/ vốn chủ sở hưu, lợi nhuận/ doanh thu...), chỉ tiêu về thanh khoản (khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán ngắn hạn)

Nhóm tiêu chí phi tài chính gồm các yếu tố sau: Năng lực quản trị điều hành, giá trị vô hình, giá trị thương hiệu, môi trường kiểm soát nội bộ, triển vọng ngành, vị thế cạnh tranh, tác động môi trường kinh tế vĩ mô, lịch sử quan hệ tín dụng của khác hàng với các NHTM.

Việc xây dựng hệ thống thông tin khách hàng sẽ giúp các NHTM lượng hóa được các mức độ rủi ro tín dụng theo từng khách hàng, từng nhóm khách hàng, từng nhóm ngành nghề, từng khu vực phát triển tín dụng, đây là cơ sở quan trọng để đưa ra các biện pháp kiểm soát rủi ro tín dụng phù hợp trong từng giai đoạn kinh doanh của các NHTM.

+ Xây dựng mô hình định lượng rủi ro danh mục tín dụng


Như đã đề cập trong phần thực trạng và hạn chế của các ngân hàng thương mại Việt Nam, hiện nay các ngân hàng đã và đang áp dụng các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng theo quy định chung của Ngân hàng Nhà nước, chưa có cách tính toán đặc thù


cho từng ngân hàng, theo khuyến nghị của Ủy ban Basel, vì vậy tổn thất đo lường được có thể không phù hợp, không sát đúng với rủi ro tiềm tàng tại mỗi ngân hàng. Mặt khác, theo quy định của ngân hàng Nhà nước (trong quyết định 493 và mới đây là thông tư 02) cũng chưa có cách đo lường cho rủi ro của toàn danh mục. Vì vậy thiết nghĩ, thời gian tới các ngân hàng nên tự nghiên cứu tìm hiểu, hoặc cần thiết có thể ký hợp đồng tư vấn từ các tổ chức nước ngoài để từng bước xây dựng cho mình một mô hình đo lường rủi ro danh mục phù hợp hướng đến thông lệ quốc tế. Để làm được điều này, trước hết các ngân hàng cần hoàn chỉnh hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ hiện tại, để hình thành các dữ liệu cần thiết cho việc xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh mục.

Để việc dự báo, cảnh báo các mức độ rủi ro tín dụng cũng như việc đảm bảo công tác giám sát, kiểm soát tín dụng nội bộ đạt hiệu quả cao trong quá trình điều hành và xây dựng chính sách tăng trưởng tín dụng cho các NHTM, việc lượng hóa các thước đo rủi ro tín dụng là điều cần thiết mà các NHTM phải từng bước xây dựng. Dựa trên các nội dung của hiệp ước Basel II, tác giả kiến nghị các NHTM cần xây dựng các nguyên tắc lượng hóa rủi ro tín dụng theo các cấu phần đo lường rủi ro tín dụng như: PD (Probability of Default) – Xác suất không trả được nợ của khách hàng, LGD (Loss Given Default)- Tỉ lệ mất vốn dự kiến, EAD (Exposure at Default )- Dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ, EL (Expected Loss) -tổn thất có thể ước tính mà Basel 2 đã xây dựng. Hiện nay các NHTM cũng đã từng bước lượng hóa các rủi ro tín dụng bằng phương pháp chấm điểm tín dụng khách hàng, tuy nhiên phương pháp chấm điểm tín dụng chỉ dừng lại mức độ đo lường rủi ro cho mục đích phán quyết cấp tín dụng nhiều hơn mục đích quản trị rủi ro tín dụng.

+ Xây dựng lộ trình áp dụng các chuẩn mực Basel trong thời gian ngắn nhất

Phiên bản đầu tiên của Basel, Basel I ra đời năm 1988, do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) soạn thảo, tiếp đến là hiệp ước Basel 2 ra đời vào ngày 26/6/2004 đã đề xuất khung đo lường rủi ro trong hoạt động ngân hàng với 3 trụ cột chính, gồm: Trụ cột 1 yêu cầu về vốn tối thiểu, trụ cột 2 qui trình rà soát, giám sát, trụ cột 3 công khai thông tin nguyên tắc thị trường. Trong đó, trụ cột thứ 2 đã cung cấp một khung giải pháp cho các hoạt động rủi ro tại các NHTM. Theo đó, bên cạnh việc


sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng từ các cơ quan xếp hạng tín dụng bên ngoài (ví dụ như thông tin xếp hạng tín dụng từ Trung tâm thông tin tín dụng – CIC), các NHTM nên xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của riêng mình nhằm giảm thiểu những rủi ro thanh khoản và nâng cao chất lượng tín dụng như nội dung vừa nêu ở trên. Tuy nhiên cho đến nay hệ thống NHTM Việt Nam còn đang trong giai đoạn chưa đuổi kịp các yêu cầu về quản trị rủi ro theo chuẩn mực Basel 2. Chính vì vậy, các NHTM cần ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ sử dụng cho các ngân hàng thương mại, từng bước áp dụng các thông lệ quốc tế cũng như những chuẩn mực của Basel 2 là điều rất cần thiết và khẩn trương.

Việc xây dựng lộ trình thực hiện Basel II theo từng bước, từng giai đoạn và yêu cầu các NHTM đánh giá đầy đủ thực trạng trên tất cả các phương diện so với yêu cầu của Basel 2 để có kế hoạch cụ thể thu hẹp khoảng cách, tiến tới tuân thủ đầy đủ yêu cầu của Basel 2 là công việc vừa của ngân hàng.

Hiện nay, các ngân hàng thương mại nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã triển khai Basel 2 nên NHNN làm đầu mối tạo cơ chế hợp tác chia sẻ kinh nghiệm áp dụng Basel 2 giữa ngân hàng nước ngoài và NHTM Việt Nam thông qua các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm hoặc thúc đẩy hợp tác song phương giữa các NHTM Vệt Nam và NHTM nước ngoài để có được những kinh nghiệm, tư vấn kỹ thuật triển khai Basel 2, áp dụng cho hệ thống NHTM Việt Nam.

3.2.5. Nhóm giải pháp ứng dụng các công cụ phái sinh để hạn chế rủi ro tín

dụng

Phái sinh rủi ro tín dụng là một hình thái chuyển giao rủi ro tín dụng bậc cao

nhằm giúp các NHTM có một công cụ để chuyển giao, mua bán, gia công, chế biến rủi ro tín dụng mà không cần phải chuyển giao các danh mục tín dụng của mình. Để sản phẩm này có thể phát triển góp phần vào việc quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam đòi hỏi sự góp sức hỗ trợ từ phía NHNN cũng như các bộ ngành có liên quan, hiệp hội ngân hàng và hơn nữa là bản thân nội tại các NHTM Việt Nam.

Trong thời gian tới, cần chú trọng tới việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thống nhất về nghiệp vụ tài chính phái sinh và phái sinh tín dụng cho các NHTM. Ngân hàng Nhà nước nên nghiên cứu xây dựng cơ sở pháp lý cho các công cụ phái

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí