sinh khác như các giao dịch phái sinh tín dụng, phái sinh lãi suất… đồng thời, cho phép các NHTM thực hiện các nghiệp vụ phái sinh này, tạo điều kiện cho các NHTM cung cấp những phương tiện phòng ngừa rủi ro tín dụng cho chính bản thân các NHTM. Ngân hàng Nhà nước cũng nên ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện các nghiệp vụ này đối với các NHTM. Mặt khác, lãnh đạo các NHTM cần nhận thức được sự cần thiết của việc sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng để phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Tại Việt Nam hiện nay, các nghiệp vụ phái sinh tín dụng còn hết sức mới về nghiệp vụ lẫn sản phẩm cung ứng không chỉ đối với khách hàng mà ngay cả đối với cán bộ lãnh đạo và nhân viên NHTM. Phái sinh tín dụng được đánh giá là tương đối khó về mặt nghiệp vụ, kỹ thuật nhưng thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với các NHTM trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng của hoạt động kinh doanh ngân hàng tại Việt Nam. Trong khi đó, thị trường phái sinh tín dụng toàn cầu phát triển mạnh mẽ cả về số lượng hợp đồng cũng như giá trị của các hợp đồng được giao dịch, điều này cho thấy vai trò quan trọng của phái sinh tín dụng trong hoạt động cấp tín dụng và hoạt động quản trị rủi ro tín dụng mà các NHTM nói chung và NHNN nói riêng cần nghiên cứu, xây dựng và áp dụng vào thực tiễn càng sớm càng tốt .
Từ tính hữu dụng và cấp thiết của thị trường phái sinh tín dụng tác giả kiến nghị:
Tại Việt Nam, trong thời gian năm năm tới, để thị trường phái sinh tín dụng có thể hình thành và phát triển các nghiệp vụ phái sinh, trước hết đòi hỏi các cấp lãnh đạo tại các NHTM Việt Nam cần xây dựng các bước áp dụng công cụ phái sinh tín dụng dựa trên sự nghiên cứu, nhận thức và quan điểm đúng đắn về việc triển khai các nghiệp vụ này trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại chính ngân hàng mình. Các NHTM cần có đủ số lượng nhân viên có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng phù hợp để triển khai nghiệp vụ phái sinh. Những nhân viên này rõ ràng phải có sự hiểu biết sâu sắc về thị trường cũng như những biến động của thị trường, về các loại công cụ tài chính phái sinh, quy cách giao dịch, kỹ thuật định giá, các loại rủi ro có liên quan và luật lệ của thị trường. Bênh cạnh đó, NHNN muốn phát triển các nghiệp vụ phái sinh tín dụng cũng phải xây dựng và đào tạo đội ngũ nhân viên, chuyên viên, chuyên gia về thị trường phái sinh tín dụng. Bằng nhiều con đường khác nhau như
thuê chuyên gia nước ngoài để đào tạo nhân sự nội bộ, thiết kế sản phẩm và xây dựng quy trình, xây dựng hành lang pháp lý v.v., để đảm bảo đầy đủ các yếu tố tiền đề này cho việc ra đời thị trường phái sinh tín dụng và vai trò kiểm soát của NHNN.
Để thị trường phái sinh tín dụng trở thành công cụ hiệu quả trong việc quản trị rủi ro tín dụng tín, các NHTM phải có hệ thống quản trị rủi ro tín dụng nói riêng và hệ thống quản trị rủi ro nói cung phải có khả năng định lượng được rủi ro vì việc tham gia vào thị trường kinh doanh công cụ phái sinh tín dụng sẽ dẫn đến việc đo lường rủi ro sẽ trở nên phức tạp hơn, danh mục đầu tư trở nên ngày càng đa dạng hơn. Do đó, Ngân hàng cần xây dựng chất lượng danh mục tín dụng để làm cơ sở ra quyết định định giá cho các công cụ phái sinh khác nhau. Việc đồng bộ hóa và công khai chất lượng danh mục tín dụng giữa các NHTM với nhau phù hợp với quy định quốc tế về xếp hạng tín dụng sẽ giúp các công cụ phái sinh tín dụng trở nên hiệu quả và hoàn thiện hơn.
Ngoài ra, để gia tăng hiệu quả và hạn chế rủi ro đối với công cụ phái tín dụng thì các NHTM phải chú trọng đến việc chuẩn hóa các hợp đồng giao dịch phái sinh theo thông lệ quốc tế. Các quy định phải cụ thể chặt chẽ như quy định những loại tài sản được sử dụng làm tài sản cơ sở, số lượng mỗi giao dịch, sự kiện rủi ro có liên quan đến biến cố chi trả cần được xác định rõ phạm vi, giới hạn trả tiền và các trường hợp loại trừ, tránh trường hợp quy định không rõ ràng dẫn đến tranh chấp giữa các bên tham gia, theo đó các NHTM Việt Nam có thể nghiên cứu các hợp đồng chuẩn hóa của ISDA (International Swaps and Derivatives Assotiation - Hiệp hội phái sinh và hoán đổi quốc tế) để có thể áp dụng ở Việt Nam.
3.2.6. Nhóm giải pháp hỗ trợ khác
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn Thiện Các Yêu Cầu Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Hoàn Thiện Các Phương Thức Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng
- Thực Hiện Phân Loại Nợ Và Trích Lập Dự Phòng Rủi Ro Đầy Đủ Và Chính Xác Phản Ánh Đúng Tình Trạng Nợ Của Mỗi Ngân Hàng Thương Mại
- Kiến Nghị Đối Với Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
- Giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 22
- Cơ Sở Lý Luận Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
3.2.6.1 Xây dựng đội ngũ CBTD có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp
Con người, vốn, công nghệ là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của ngân hàng. Trong thực tế, để có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi phải có sự đầu tư về vật chất, thời gian. Đồng thời ngân hàng cũng nâng cao đòi hỏi của mình đối với cán bộ về tinh thần trách nhiệm, hiệu quả công việc,... Vì vậy cần phải chú trọng những vấn đề sau:
Về năng lực công tác: Yêu cầu mỗi CBTD không những phải thường xuyên nghiên cứu, học tập nắm vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác, nhất là khả năng phát hiện ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách hàng.
Về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm: Yêu cầu mỗi cán bộ phải luôn tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao trách nhiệm công việc. Cán bộ ở cương vị càng cao, càng phải gương mẫu trong việc thực hiện quy chế cho vay; quy định về bảo đảm tiền vay; quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng và các văn bản có liên quan khác. Có như vậy, không những giữ vững được phẩm chất đạo đức mà ý thức trách nhiệm cũng được nâng lên, xử lý công việc hiệu quả hơn, khắc phục được tư tưởng ỷ lại, trông chờ tạo ra chuyển biến tích cực trong quản lý.
Cần quan tâm nhiều hơn đến đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong công tác, đồng thời phải căn cứ vào kết quả công tác của họ để đãi ngộ, đối xử công bằng. Đối với cán bộ có thành tích xuất sắc, cần biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả của họ mang lại, kể cả việc nâng lương trước hạn hoặc đề bạt lên để đảm nhiệm ở vị trí cao hơn. Đối với cán bộ có sai phạm, tuỳ theo tính chất, mức độ mà có thể giáo dục thuyết phục hoặc phải có xử lý kỷ luật. Có như vậy, không những kỷ cương trong hoạt động tín dụng và uy tín của ngân hàng sẽ ngày càng được nâng cao mà chất lượng tín dụng cũng được cải thiện.
3.2.6.2 Đầu tư trang thiết bị công nghệ thông tin hiện đại
Công nghệ thông tin được ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng làm tăng tính hiệu quả của toàn hệ thống, giúp lưu trữ thông tin đầy đủ và chính xác, tiết kiệm thời gian,... góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Trong quá trình đầu tư công nghệ, các ngân hàng thương mại cần có kế hoạch triển khai cụ thể và theo hướng sau:
Đầu tư theo chiều sâu vào các trang thiết bị như: hệ thống mạng nội bộ, các phần
mềm tin học, đặc biệt những phần mềm xử lý hỗ trợ cho công tác thẩm định, thẩm
định dự án. Cập nhật những công nghệ ngân hàng mới hiện đại trên thế giới đáp ứng
nhu cầu phát triển và hội nhập.
Song song với việc đầu tư công nghệ đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên tập huấn cho các cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định để có khả năng sử dụng các công nghệ của ngân hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng phải chú trọng sự đầu tư trang thiết bị và công nghệ phải được thực hiện từng bước, không nên đầu tư một cách dàn trải. Bởi lẽ cần phải có thời gian thích ứng, thay đổi, phù hợp với sự phát triển hiện tại của hệ thống.
3.2.6.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin
Thông tin có một vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực cuộc sống nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Mức độ làm chủ được thông tin sẽ quyết định sự thành công. Với vai trò quan trọng của hệ thống thông tin như vậy, đòi hỏi NHTM cần phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thông tin theo hướng sau:
Hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động tín dụng
Giả sử chúng ta ví hoạt động tín dụng như một nhà máy với sản phẩm đầu ra là các khoản tín dụng thì thông tin tín dụng là một phần nguyên liệu đầu vào của nhà máy đó. Nguyên liệu đó bao gồm thông tin lịch sử, hiện tại và xu hướng phát triển của khách hàng và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay. Với vai trò quan trọng đó, đòi hỏi ngân hàng cần phải hoàn thiện từ khâu thu thập, xử lý, sử dụng các thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh của NH.
NH cần phải thu thập thông tin từ các nguồn sau:
Thu thập thông tin từ chính hồ sơ vay vốn.
Từ các nguồn điều tra tại chỗ.
Từ chứng từ lưu trữ trong sổ sách của hệ thống NH.
Từ ngân hàng khác đã có quan hệ đối với người xin vay, những doanh nghiệp có liên quan đến khách hàng.
Từ trung tâm thông tin và phòng ngừa rủi ro được thành lập bởi NHNN.
Từ các nguồn thông tin khác: các doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin trên báo chí.
Hoàn thiện hệ thống thông tin
Thực hiện việc quản lý dữ liệu tập trung, đảm bảo có sẵn thông tin cho các nhà quản trị khi ra quyết định cho vay.
Triển khai việc xếp hàng tín dụng đối với khách hàng vay; nâng cấp, đảm bảo
chính xác và kịp thời hệ thống thông tin báo cáo và quản trị rủi ro.
Để thiết lập và xử lý lượng thông tin từ nhiều nguồn góp phần vào sự hoàn thiện hệ thống thông tin NHTM cần:
Đẩy nhanh quá trình tin học hoá, thiết lập phần mềm quản lý khách hàng, thống kê, lưu trữ thông tin để bổ sung cho việc phân tích và đánh giá khách hàng.
Tạo ra một bộ phận chuyên nghiên cứu và xử lý nguồn thông tin: để giúp phân loại và sắp xếp thông tin một cách khoa học, có chất lượng góp phần đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng.
Tăng cường hợp tác, liên kết, trao dồi chia sẻ thông tin giữa các NHTM trong việc cung cấp thông tin cho nhau về khách hàng góp phần hỗ trợ trong việc ra quyết định tín dụng chính xác đồng thời sẽ làm giảm thiểu rủi ro tín dụng.
3.2.6.4 Có kế hoạch tăng vốn điều lệ hợp lý, kịp thời
Tăng vốn điều lệ một yêu cầu cấp thiết của NHTM. Vì tăng vốn điều lệ nâng cao uy tín và mở rộng quy mô phát triển của hệ thống NHTM. Trên cơ sở đó mới có khả năng mở rộng hình thức huy động vốn trên thị trường, hạn chế rủi ro trong quá trình cho vay, đa dạng hoá hình thức cấp tín dụng, góp phần đảm bảo an toàn của NHTM. Ngoài ra, trong xu thế hội nhập và cạnh tranh với các ngân hàng thương mại nước ngoài có nhiều kinh nghiệm và tiềm lực tài chính nên các NHTM cần phải tiếp tục tăng vốn điều lệ để đáp ứng các yêu cầu sau:
Xét về góc độ chính sách: Nhằm nâng cao năng lực tài chính cho các NHTM theo lộ trình hội nhập quốc tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ, yêu cầu đến cuối năm 2010 các NHTMCP phải đảm bảo
mức vốn pháp định là 3.000 tỷ đồng, đến cuối năm 2012 là 5.000 tỷ đồng và đến cuối năm 2015 là 10.000 tỷ đồng. Vì vậy, yêu cầu về tiến độ tăng vốn điều lệ của các NHTM là yêu cầu được áp dụng trong các chính sách này và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng luôn yêu cầu các ngân hàng thương mại không ngừng nâng cao năng lực tài chính thông qua các chính sách, qui định của Ngân hàng nhà nước như Quyết định 493/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về chuyển nợ quá hạn, trích lập và sử dụng dự phòng ảnh hưởng của chính sách đối với các NHTM, Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 về đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các TCTD, Quyết định 888/2005/QĐ-NHNN ngày 16/6/2005 về việc mở, thành lập và chấm dứt hoạt động sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của NHTM tạo sức ép buộc phải tăng vốn điều lệ đối với việc mở chi nhánh, và hàng loạt thông lệ quốc tế tốt nhất về quản trị rủi ro tại các ngân hàng dựa trên Hiệp ước Basel 1 và Basel 2 bắt đầu được áp dụng;
Sức ép của hội nhập: Hội nhập sẽ đem đến cho các ngân hàng nhiều cơ hội kinh doanh mới, nhưng cũng đặt ra cho các ngân hàng vô vàn thách thức và khó khăn mà trong đó yếu tố: vốn, công nghệ, nguồn nhân lực là 3 trụ cột then chốt quyết định đến vận mệnh của một ngân hàng.
Sức ép từ sự phát triển của chính các NHTM: Chính sự phát triển của các ngân hàng thương mại, và nâng cao năng lực cạnh tranh cũng đòi hỏi ngân hàng phải tăng vốn điều lệ để mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực tài chính, đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế rủi ro trong quá trình cho vay.
3.2.6.5 Thực hiện chính sách sáp nhập, hợp nhất các TCTD để nâng cao năng lực
tài chính
Giai đoạn thập niên 90, là một giai đoạn các NHTM phát triển nhanh về số lượng nhưng chưa đi sâu về chất lượng, chính vì thế tiến trình sáp nhập hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nhằm nâng cao năng lực tài chính và đi sâu vào chất lượng là một yêu cầu mang tính tất yếu. Việc sáp nhập, hợp nhất các TCTD với nhau để nâng cao năng lực tài chính cần được đánh giá và thực thi một cách thận trọng và theo hai xu hướng sau:
Sáp nhập, hợp nhất các TCTD yếu kém vào các TCTD lớn, có tình hình tài chính lành mạnh
Hợp nhất các TCTD có quy mô nhỏ, tình hình tài chính tốt thành TCTD có quy mô lớn và năng lực tài chính lành mạnh
Để thực hiện nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị cho các NHTM bằng
giải pháp sáp nhập, hợp nhất thì hệ thống ngân hàng Việt Nam cần:
Thứ nhất, đối với Ngân hàng Nhà nước
Rà soát và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động hợp nhất, sáp nhập giữa các
NHTM có nhu cầu tự nguyện và có yêu cầu bắt buộc.
Có một chiến lược phát triển NHTM phù hợp cả về số lượng, năng lực tài chính, nhu cầu theo vùng miền, từ đó NHNN xây dựng chính sách điều hành kinh tế theo đúng mục tiêu vĩ mô đã xây dựng nhằm giúp các NHTM đi theo đúng mục tiêu, tránh việc cấp phép cho NHTM một nơi nhưng hoạt động kinh doanh ở một nơi khác hay cấp phép một cách ồ ạt sau đó NHNN mới xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực tài chính bằng cách tăng vốn điều lệ như thời gian qua là chưa khả thi.
Hạn chế tối đa việc sáp nhập theo công thức cộng nghĩa là các NHTM yếu kém sáp nhập với nhau để tạo thành khu vực NHTM yếu kém từ đó các cơ quan quản lý xây dựng giải pháp kiểm soát các ngân hàng này để đạt mục đích về số lượng NHTM theo lộ trình thời gian.
Đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng thông qua việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài có năng lực tài chính, công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản trị nắm giữ cổ phần và tham gia quản trị các NHTM Việt Nam.
Thứ hai, đối với các NHTM
Đánh giá tiềm năng chính ngân hàng mình và các ngân hàng khác trên thị trường tài chính Việt Nam nhằm xây dựng kế hoạch sáp nhập nếu cần thiết, đặc biệt là các NHTM có các danh mục cho vay tập trung vào một hoặc nhóm khách hàng, nhóm ngành nghề quá lớn và có thể gây rủi ro nếu kinh tế khó khăn.
Các NHTM cần thực thi một cách tự nguyện quá trình sáp nhập, hợp nhất, xem việc sáp nhập, hợp nhất là một tiến trình tất yếu để nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành hơn là quá trình chuyển đổi chủ sở hữu hay là chuyển đổi người ra lệnh tối cao của ngân hàng.
Các ngân hàng cũng cần nắm chắc các vấn đề trong quá trình thực hiện hợp nhất, sáp nhập để có một kế hoạch mang tính khả thi, tránh sự dàn trải và thiếu hiệu quả.
3.3. CÁC KIẾN NGHỊ TẠO HÀNH LANG PHÁP LÝ CHO GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.3.1. Kiến nghị với Nhà Nước
Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và ổn định chính sách tiền tệ
Sự ổn định nền kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp đến mọi chủ thể của nền kinh tế. Hệ thống NHTM được ví như những “huyết mạch” của nền kinh tế và có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Một nền kinh tế ổn định tạo điều kiện cho việc lưu thông trong huyết mạch được trôi chảy và thuận lợi, ngược lại hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ làm cho nền kinh tế ngày càng ổn định và phát triển. Sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô tạo điều tốt cho sự phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức, giảm thiểu rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của các chủ thể kinh tế.
Khi lòng tin của dân chúng vào sự ổn định của đồng tiền Việt Nam được nâng cao thì công tác huy động vốn sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, định hướng đầu tư, ổn định giá trị đồng tiền nội tệ thông qua các chính sách về tỷ giá hối đoái để khuyến khích đầu tư, thực hiện đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp tạo môi trường ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động.
Tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho hoạt động của Ngân hàng
Khung pháp lý trong thời gian vừa qua đã được tạo lập tuy nhiên vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập; vì vây cần hoàn thiện các văn bản pháp luật tạo điều kiện cho hoạt động