Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 41


臨岐無限淚天外雨霏霏

LƯU BIỆT TRẦN TUẤN VIỄN

Nhân nguyện học Nhan Tử,1 Tâm tam nguyệt bất vi.

Như ngu phương lạc đạo,2 Nhược nạp khởi vong ki. Nhất ngộ lưu thanh nhãn,

Kỵ hồi ức bạch y. Lâm kỳ vô hạn lệ,

Thiên ngoại vũ phi phi.

Dịch nghĩa:

TẠM BIỆT TRẦN TUẤN VIỄN

Nguyện học theo Nhan Uyên về đức nhân, Ba tháng lòng không thay đổi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Như ngu dại mới là vui với đạo,

Như vụng về há có phải là quên đi cơ xảo? Vừa gặp gỡ đã lọt vào mắt xanh,

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 41

Bao lần ta nhớ về thời bần hàn mặc áo trắng. Đến nơi ngã rẽ, lệ rơi vô hạn,

Ngoài trời mưa bay phất phơ.

Dịch thơ:

Nhân, nguyện học Nhan Tử, Lòng ba tháng chẳng dời.

Như ngu mới thấu đạo, Tựa vụng ấy quên đời. Áo trắng bao lần nhớ,

Mắt xanh thoáng gặp thôi. Lệ tuôn buồn ngã rẽ,

Mưa khói mịt chân trời.


35.

畱贈黃奮南塵懷無半點清雅世堪師醫俗書千卷陶情酒一巵荒郊纔倚玉滄海又分岐聊折庭前菊途中慰所3

LƯU TẶNG HOÀNG PHẤN NAM

Trần hoài vô bán điểm,


1 Nhan Tử: học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, nổi tiếng về đức nhân, nhưng lại mất sớm.

2 Câu này xuất ý từ chuyện Nhan Hồi “toạ vong” (ngồi mà quên)

trong Đại tông sư, mục 8, ở sách Trang tử: “… Một hôm khác nữa, lại ra mắt mà rằng: - Hồi được thêm. - Là nghĩa gì? - Hồi "ngồi mà quên" rồi. Trọng Ni ngạc nhiên hỏi: - Ngồi mà quên, là thế làm sao? Nhan Hồi nói: Giải thể, bỏ thông minh, lìa hình, bỏ trí, đồng với Đạo lớn. Đó gọi là "ngồi mà quên" (tọa vong). Trọng Ni nói: "Đồng, thì không còn tham muốn nữa; hóa, thì không thường nữa. Quả Hồi là người hiền, Khưu này nguyện theo sau đó".” (Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch).

3 Nguyên văn thiếu mất hai chữ, chúng tôi đoán ý thêm vào.

Thanh nhã thế kham sư. Y tục thư thiên quyển, Đào tình tửu nhất chi. Hoang giao tài ỵ ngọc, Thương hải hựu phân kỳ. Liêu chiết đình tiền cúc, Đồ trung uý sở tư.

Dịch nghĩa:

LƯU TẶNG HOÀNG PHẤN NAM

Nỗi trần tục không chút điểm,

Là bậc thầy thanh tao cao nhã một đời. Cứu đời ngàn pho sách,

Di dưỡng tính tình trong một chén rượu.

Nơi ngoại thành hoang vu vừa mới chống gậy ngọc,

Đã vào biển xanh rồi lại lên núi non, Tạm hái một cành cúc nơi đầu sân, Giữa đường an ủi nỗi nhớ thương.

Dịch thơ:

Nỗi trần không chút điểm, Thanh nhã xứng tôn sư.

Cứu thế, sách ngàn quyển, Dưỡng tình, rượu một li. Đồng hoang vừa gửi ngọc, Biển biếc lại chia li.

Tạm ngắt một cành cúc, Đường xa đỡ thảm bi.


36.

畱贈張稔溪才高張子術春燠杏花林醫世君臣藥懷人玉石心余身輕一葉爾意重千金南北明朝別青青柳岸陰

LƯU TẶNG TRƯƠNG NẪM KHÊ

Tài cao Trương Tử thuật,4 Xuân úc hạnh hoa lâm.

Y thế quân thần dược, Hoài nhân ngọc thạch tâm. Dư thân khinh nhất diệp,

Nhĩ ý trọng thiên câm (kim). Nam bắc minh triêu biệt, Thanh thanh liễu ngạn âm. Dịch nghĩa:

LƯU TẶNG TRƯƠNG NẪM KHÊ


4 Trương Tử: tức Trương Lương, là người có chí lớn, được Hoàng Thạch Công truyền cho sách binh thư, học thành tài. Trương Lương là người nước Hàn, nước Hàn bị nhà Tần diệt, ông liền theo Hán Cao tổ Lưu Bang diệt Tần. Ở đây Ngô Nhân Tĩnh có ý ví Trương Nẫm Khê cũng có tài như Trương Lương.


Tài anh cao như Trương Lương, Mùa xuân ấm trong vườn hoa hạnh.

Cứu đời bằng phương thuốc quân thần, Nhớ ai với tấm lòng vàng ngọc.

Thân tôi nhẹ như chiếc lá,

Ý tình của anh nặng tựa ngàn vàng. Từ mai chia biệt kẻ nam người bắc, Bóng liễu bên bờ sắc xanh xanh.

Dịch thơ:

Tài cao sánh Trương Tử, Rừng hạnh hoa ngát xuân, Mến khách: lòng ngọc đá, Cứu đời: thuốc quân thần. Thân tôi – lá cô lẻ,

Ý bác – vàng mấy cân. Mai sớm chia nam, bắc, Bờ đê liễu xanh rờn.


37.

畱贈劉三哥廣交天下士令德海應同不道人情短惟憐客路窮平明臨夜月和淡仰春風何日酬知遇羞余一別中

LƯU TẶNG LƯU TAM CA

Quảng giao thiên hạ sĩ, Lệnh đức hải ưng đồng. Bất đạo nhân tình đoản, Duy liên khách lộ cùng. Bình minh lâm dạ nguyệt,

Hoà đạm ngưỡng xuân phong. Hà nhật thù tri ngộ,

Tu dư nhất biệt trung.

Dịch nghĩa:

LƯU TẶNG LƯU TAM CA

Anh kết giao với kẻ sĩ khắp thiên hạ, Đức độ của anh giống như biển cả. Đừng bảo rằng tình người ngắn ngủi, Riêng thương khách đã cùng đường. Bình lặng sáng suốt như ánh trăng đêm, Ấm áp thanh đạm như gió xuân.

Biết ngày nào mới đền được ơn tri ngộ này, Thẹn cho tôi vừa quen anh đã phải chia xa. Dịch thơ:

Quảng giao khắp thiên hạ, Đức độ như biển trào.

Ai nói tình người bạc,

Anh thương khách khổ đau. Như trăng đêm lặng sáng,

Tựa gió ấm xôn xao. Tri ngộ bao giờ đáp, Thẹn mình lại cách sao!


38.

和符磻溪畱別原韻乍逢豪俠好兒男 言別悠悠思不堪 萬里秋天雲海外 一枝明月鳥巢南 憐誰未遇寧懷寶 羞我臨行辱贈楠 若使明珠應售世 求諸善價爲君探

HOẠ PHÙ BÀN KHÊ LƯU BIỆT NGUYÊN VẬN

Sạ phùng hào hiệp hảo nhi nam, Ngôn biệt du du tứ bất kham.

Vạn lý thu thiên vân hải ngoại, Nhất chi minh nguyệt điểu sào nam. Liên thuỳ vị ngộ ninh hoài bảo,

Tu ngã lâm hành nhục tặng nam. Nhược sử minh châu ưng thụ thế, Cầu chư thiện giá vị quân tham. Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI PHÙ BÀN KHÊ LƯU BIỆT

Chợt gặp một bậc nam tử hào hiệp,

Nói lời chia biệt, lòng buồn dằng dặc không nguôi.

Trời thu trải muôn dặm, mây trôi ngoài biển, Một vầng trăng sáng, chim Việt đậu cành nam. Thương ai chưa gặp thời đành giấu vật báu, Thẹn ta trước lúc đi, được tặng nhánh kỳ nam. Như có viên ngọc báu muốn bán cho đời,

Thì xin được giá tốt để anh xem.

Dịch thơ:

Trượng phu hào hiệp chợt quen nhau, Giã biệt lòng ta ngập nỗi sầu.

Vạn dặm trời thu, mây trắng biển, Một vầng trăng sáng, nhạn về đâu?

Thương người ôm ngọc, thời chưa đến, Thẹn kẻ cầm cờ, bước thấp cao.

Nếu có minh châu đời muốn bán, Thì cầu giá đắt để xem sao!


39.

交情別恨話皆難天外霏霏雨雪漫鴻鴈未歸沙浦遠梅花先動朔風寒積懷余輩詩難和



恐隔吾人酒強歡早晚得酬身事了全憑學海保平安

KỲ NHỊ

Giao tình biệt hận thoại giai nan, Thiên ngoại phi phi vũ tuyết man. Hồng nhạn vị quy sa phố viễn, Mai hoa tiên động sóc phong hàn. Tích hoài dư bối thi nan hoạ,

Khủng cách ngô nhân tửu cưỡng hoan. Tảo vãn đắc thù thân sự liễu,

Toàn bằng học hải bảo bình an.

Dịch nghĩa:

Tình bạn và nỗi hận chia cách, cả hai đều khó nói,

Ngoài trời mưa tuyết bay bời bời.

Chim hồng nhạn còn ở nơi xa chưa về bến cát, Hoa mai đã chạm trước cái rét của gió lạnh phương bắc.

Bọn tôi chất chứa nỗi lòng, thơ càng khó hoạ, Người ta sợ cách trở, uống rượu gượng vui mà thôi.

Sớm muộn thân này cũng được thù tạc.

Chỉ toàn nhờ vào biển học mà giữ được bình an.

Dịch thơ:

Hận biệt, giao tình, nói khó sao! Ngoài trời mưa tuyết rắc nao nao. Cánh nhàn xa thẳm chưa về bến, Mai thắm lạnh lùng trước gió xao. Quyến luyến bọn mình, thơ khó hoạ, Xa xăm lũ tớ, rượu khôn vào.

Sớm hôm thân cũng được đền đáp, Biển học cậy nhờ nên chẳng nao.


Giao tình xa cách khó nên lời, Mưa tuyết ngoài trời phơ phất rơi. Cánh nhạn xa chưa về bến cát, Nhành mai lạnh hé gió đông bời. Bọn mình bao nỗi, thơ khôn hoạ, Lũ tớ chia li, rượu gượng mời.

Sớm muộn thân này âu cũng gặp, Bình an cậy biển học mà thôi.


40.

和劉三哥畱別原韻海疆波浪恨難平 今日爲君酒盡傾 邦國憑誰安甲帳 乾坤勞我逐竿旌 百年事業長憂世 一片肝腸儘話卿 握手鏡江相別後

孤懷明月望仙城

HOẠ LƯU TAM CA LƯU BIỆT NGUYÊN VẬN

Hải cương ba lãng hận nan bình, Kim nhật vị quân tửu tận khuynh. Bang quốc bằng thuỳ an giáp trướng, Càn khôn lao ngã trục can tinh.

Bách niên sự nghiệp trường ưu thế, Nhất phiến can trường tận thoại khanh. Ốc thủ Kính Giang tương biệt hậu,

Cô hoài minh nguyệt vọng Tiên Thành.

Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI LƯU BIỆT CỦA LƯU TAM CA

(Bài 1)

Hận khó bình được sóng dữ ngoài biển, Hôm nay vì anh tôi dốc cạn chén rượu. Đất nước cậy ai làm an việc binh đao, Đất trời nhọc tôi quét sạch giặc giã.

Sự nghiệp trăm năm vẫn thường lo cho đời, Một tấm lòng dốc hết nói cùng anh.

Sau khi nắm tay chia biệt ở Kính Giang,

Một mình ôm nỗi nhớ như vầng trăng sáng ngóng về Tiên Thành.

Dịch thơ:

Sóng dữ biên cương hận khó bình, Li này dốc cạn cũng vì anh.

Nước nhà cậy bác yên binh lửa, Trời đất phiền tôi đuổi ngạc kình. Sự nghiệp trăm năm, đời mãi nghĩ,

Can trường một dạ, chuyện chân tình. Kính Giang tay nắm, ta từ biệt,

Trăng sáng Tiên Thành riêng nhớ quanh.


41.

河橋分袂思依依萬里歸帆掛夕暉北嶺寒梅和1雪放南天旅雁帶霜飛江前漂母恩推食城下王孫釣罷歸愧我素餐何日報每懷一粒一珠璣

KỲ NHỊ

Hà kiều phân quyết tứ y y,

Vạn lý quy phàm quải tịch huy. Bắc lĩnh hàn mai hoà tuyết phóng, Nam thiên lữ nhạn đới sương phi. Giang tiền Phiếu mẫu ân thôi thực,2 Thành hạ vương tôn điếu bãi quy.1


1 Nguyên văn thiếu mất hai chữ. Chúng tôi đoán ý thêm vào.

2 Phiếu mẫu: bà già đưa cơm cho Hàn Tín thuở ông còn hàn vi.


Quý ngã tố xan hà nhật báo, Mỗi hoài nhất lạp nhất châu ki. Dịch nghĩa:

(Bài 2)

Bên cầu sông dứt vạt áo ra đi, lòng buồn vời vợi,

Một cánh buồm về trong muôn dặm mang cả bóng chiều.

Mai lạnh núi bắc nở trong băng tuyết, Cánh nhạn trời nam bay trong cõi sương.

Trước sông, từng chịu ơn đưa cơm của Phiếu mẫu,

Dưới thành, bao chàng công tử câu xong trở về.

Thẹn cho ta ngồi ăn không, biết bao giờ mới báo đáp được,

Thường nghĩ mỗi hạt cơm là một hạt ngọc.

Dịch thơ:

Bên cầu dứt áo, dạ buồn vương, Muôn dặm thuyền về chở tịch dương. Núi Bắc hoa mai khoe giữa tuyết, Trời Nam cánh nhạn gội trong sương. Cho cơm trước bến, ơn bà Phiếu, Câu chán về thành, oán gã Vương.

Thẹn kẻ ăn không, chưa báo đáp, Hạt cơm hạt ngọc nghĩ thêm thương.


42.

和張稔溪畱別原韻說到當時思已醺 一樽別酒意中人 白歸深洞雲天暮 綠染長亭柳岸新 潮海難窮千里念 風雲易老百憂身 牡丹肯許栽南土 高占邊方雨露春

HOẠ TRƯƠNG NẪM KHÊ LƯU BIỆT NGUYÊN VẬN

Thuyết đáo đương thì tứ dĩ huân, Nhất tôn biệt tửu ý trung nhân. Bạch quy thâm động vân thiên mộ,

Lục nhiễm trường đình liễu ngạn tân. Triều hải nan cùng thiên lý niệm, Phong vân dị lão bách ưu thân.

Mẫu đơn khẳng hứa tài Nam thổ, Cao chiếm biên phương vũ lộ xuân. Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI LƯU BIỆT CỦA TRƯƠNG NẪM KHÊ


1 Câu này nhắc chuyện Hàn Tín thuở hàn vi thường cắm câu ở bờ sông. Cả hai câu ngụ ý chỉ bản thân của tác giả cũng gặp hoàn cảnh tương tự như Hàn Tín.

Nói đến lúc ấy, lòng đã buồn,

Một chén rượu li biệt với người tri kỵ.

Mây bay về động sâu trắng cả trời chiều tối, Liễu trường đình nhuộm xanh cả bờ sông.

Nỗi nhớ nơi xa ngàn dặm như sóng biển chẳng bao giờ thôi,

Tấm thân trăm nỗi lo như gió mây dễ già cỗi. Hoa mẫu đơn đã chịu trồng ở phương nam, Ắt sẽ chiếm một vùng mưa móc trong mùa xuân.

Dịch thơ:

Nhắc đến hôm nao dạ những sầu, Rượu từ một chén với tri giao.

Mây về động thẳm giăng trời trắng, Liễu nhuộm trường đình biếc bến sâu. Sóng biển khôn cùng, bao nỗi nhớ, Gió mây dễ cỗi, bấy lo âu.

Mẫu đơn nếu chịu về Nam sống, Xuân đến, một vùng mưa móc thâu.


43.

說情愛

是非可否爲誰陳黃柏年年苦入唇計得生平余所愛何時歸作個閒人

THUYẾT TÌNH ÁI

Thị phi khả phủ vị thuỳ trần,

Hoàng bách niên niên khổ nhập thần. Kế đắc sinh bình dư sở ái,

Hà thời quy tác cá nhàn nhân?

Dịch nghĩa:

Phải trái nào biết nói cùng ai,

Nên bao năm miệng môi cứ nhấm hoàng bách đắng lòng.

Kể hết những sở thích sinh bình của ta,

Chẳng biết bao giờ mới được làm một người nhàn hạ.

Dịch thơ:

Thị phi nào biết tỏ cùng ai,

Hoàng bách bao năm chát lưỡi này. Kể hết bình sinh ta thích chí,

Bao giờ nhàn rỗi tấm thân đây?


44.

愛念金剛一部經心頭降伏話分明若能了得如如是功破愁城不用兵

KỲ NHỊ

Ái niệm Kim cương nhất bộ kinh, Tâm đầu hàng phục thoại phân minh. Nhược năng liễu đắc như như thị,


Công phá sầu thành bất dụng binh.

Dịch nghĩa:

Thích đọc một bộ kinh Kim Cương,

Khi đã nhiếp phục được tâm thì lời nói rõ ràng. Nếu hiểu được như như thị,

Phá tan thành sầu chẳng cần dụng binh.

Dịch thơ:

Thích đọc Kim Cương một bộ kinh, Niệm trần lắng hết, lẽ phân minh. Nếu như hiểu đặng như như thị,

Thì phá thành sầu chẳng dụng binh.


45.

愛誦南華第一篇片時做個半閒仙假余讀得三千日斷盡平生俗慮纒

KỲ TAM

Ái tụng Nam hoa đệ nhất thiên, Phiến thì tố cá bán nhàn tiên.

Giả dư độc đắc tam thiên nhật, Đoạn tận bình sinh tục lự triền. Dịch nghĩa:

Thích đọc chương đầu kinh Nam hoa, Lập tức làm một vị tiên nửa nhàn hạ, Nếu ta có thể đọc được ba ngàn ngày, Cắt sạch mọi tục lự đeo bám trong đời. Dịch thơ:

Nam Hoa ta thích đọc chương đầu, Thỉnh thoảng làm tiên được phút lâu. Nếu đọc được ba ngàn buổi vậy, Cuộc đời dứt hết những lo âu.


46.

愛看黃庭一部經非常道德名難名東西南北成何事予欲無言過此生

KỲ TỨ

Ái khán Hoàng Đình nhất bộ kinh, Phi thường đạo đức danh nan danh.1 Đông tây nam bắc thành hà sự?

Dư dục vô ngôn quá thử sinh.

Dịch nghĩa:

Thích xem một bộ kinh Hoàng Đình,

Chẳng phải đạo thường, định được cái danh khó định.

Mặc cho đông tây nam bắc thành chuyện gì, Ta muốn sống qua kiếp này trong lặng im không lời.

Dịch thơ:


1 Câu này mượn ý từ câu “Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh” trong Đạo đức kinh của Lão Tử.

Một bộ Hoàng Đình thích đọc thay, Phi thường đạo đức tiếng khôn bày. Đông tây nam bắc ra gì mặc,

Ta muốn lặng im qua kiếp này.


47.

愛讀離騷酒獨醒憂君憂國百年情湘江今日長流恨天地應無負屈平

KỲ NGŨ

Ái độc Li tao tửu độc tinh,

Ưu quân ưu quốc bách niên tình. Tương giang kim nhật trường lưu hận, Thiên địa ưng vô phụ Khuất Bình.

Dịch nghĩa:

Thích đọc Li tao mọi người say riêng ta tỉnh, Lo cho vua cho nước mối tình trọn đời, Sông Tương ngày nay vẫn còn trôi nỗi hận, Trời đất chắc không phụ lòng Khuất Bình.

Dịch thơ:

Thích đọc Li tao, tỉnh một mình, Lo vua lo nước dốc tâm tình.

Đến nay Tương Thuỷ còn trôi hận, Trời đất rằng không phụ Khuất Bình.


48.

愛觀周易以持身語默行藏學聖人識得隨時真個樂天根月窟總皆春

KỲ LỤC

Ái quan Chu Dịch dĩ trì thân,

Ngữ mặc hành tàng học thánh nhân. Thức đắc tuỳ thời chân cá lạc,

Thiên căn nguyệt quật tổng giai xuân.

Dịch nghĩa:

Thích xem Chu Dịch để giữ gìn thân mình, Lặng yên trong việc hành tàng xuất xử, ta học theo thánh nhân.

Biết được tuỳ thời là niềm vui thật sự,

Núi non, hang động cũng đều nhuốm vẻ xuân.

Dịch thơ:

Thích xem Chu Dịch để gìn thân, Lời nói việc làm học thánh nhân. Biết lẽ tuỳ thời vui ý đạo,

Trời xuân, hang núi cũng vô ngần.


49.

春愛草堂睡覺天靜觀萬里錦山川莫辭樽酒花前勸只恐鶯啼又一年


KỲ THẤT

Xuân ái thảo đường thuỳ giác thiên, Tĩnh quan vạn lỳ cẩm sơn xuyên.

Mạc từ tôn tửu hoa tiền khuyến, Chỉ khủng oanh đề hựu nhất niên. Dịch nghĩa:

Mùa xuân thích nằm ngủ ngày nơi nhà cỏ, Nhàn xem núi sông gấm vóc trải muôn dặm. Đừng từ chối chén rượu mời uống trước hoa, Chỉ sợ tiếng oanh kêu, lại qua một năm.

Dịch thơ:

Mùa xuân nhà cỏ ngủ say sưa, Lặng ngắm non sông gấm vóc thừa.

Chén rượu trước hoa xin chớ khước, Sợ oanh gióng giã giục sang mùa.


50.

夏愛竹樓避暑天陰陰槐樹枕前川南風一覺余微醉高臥羲皇學少年

KỲ BÁT

Hạ ái trúc lâu tị thử thiên,

Âm âm hoè thụ chẩm tiền xuyên. Nam phong nhất giác dư vi tuý, Cao ngoạ Hy Hoàng học thiếu niên. Dịch nghĩa:

Mùa hạ thích trốn nắng trong lầu trúc,

Bóng cây hoè mát mẻ gối giấc trước dòng sông.

Gió nồm thổi làm ta tỉnh cơn say nhẹ,

Nằm gối đầu cao như tuổi trẻ thời Hy Hoàng.

Dịch thơ:

Lầu trúc thường ưa tránh nắng hè, Gối đầu trên bến, bóng hoè che.

Gió nam làm tỉnh cơn say nhẹ, Học kẻ Hy Hoàng ngủ khoẻ re.


51.

秋愛桂庭玩月天一輸皓潔共晴川人生得意須當飲莫負清光不夜年

KỲ CỬU

Thu ái quế đình ngoạn nguyệt thiên, Nhất luân hạo khiết cộng tình xuyên. Nhân sinh đắc ý tu đương ẩm,

Mạc phụ thanh quang bất dạ niên.

Dịch nghĩa:

Mùa thu thích ngắm trời trăng dưới sâm quế, Một vầng trăng thanh khiết với dòng sông quan tạnh.

Đời người đắc ý hãy uống cho thoả,

Đừng bỏ uổng cảnh đẹp suốt năm chẳng có đêm đen.

Dịch thơ:

Trăng sáng mùa thu ngắm trước thềm. Một vầng thanh khiết giữa sông êm.

Cuộc đời đắc ý thì vui uống,

Chớ phụ cảnh trời chẳng bóng đêm.


52.

冬愛梅庭對雪天漫漫世界玉山川呼童酌酒十分滿六出花飛慶瑞年

KỲ THẬP

Đông ái mai đình đối tuyết thiên, Man man thế giới ngọc sơn xuyên. Hô đồng chước tửu thập phân mãn, Lục xuất hoa phi khánh thuỳ niên. Dịch nghĩa:

Mùa đông thích ngắm trời tuyết trong sân mai, Thế giới bao la sông núi như ngọc.

Gọi trẻ rót rượu cho thật đầy,

Hoa nở sáu cánh bay mừng năm thái bình.

Dịch thơ:

Đình mai đông thích tuyết trời bay, Sông núi càn khôn tựa ngọc bày.

Bảo trẻ nghiêng ve đầy cốc rượu, Hoa vàng sáu cánh chúc điều may.


53.

壬戌年孟冬使行由廣東水程往廣西和鄭艮齋次笠翁三十韻

1.

窮南極北復西東萬水千山眼界空一片高懷雲遠外三更明對月當中酒能無量才情萃人肯忘憂學力充今古夢殘還獨嘆芙蓉江上釣漁翁

NHÂM TUẤT NIÊN MẠNH ĐÔNG SỨ HÀNH DO QUẢNG ĐÔNG THỦY TRÌNH VÃNG QUẢNG TÂY HOẠ TRỊNH CẤN TRAI THỨ LẠP ÔNG TAM THẬP VẬN

Cùng nam cực bắc phục tây đông, Vạn thuỵ thiên sơn nhãn giới không. Nhất phiến cao hoài vân viễn ngoại,

Tam canh minh đối nguyệt đương trung. Tửu năng vô lượng tài tình tuỳ,

Nhân khẳng vong ưu học lực sung. Kim cổ mộng tàn hoàn độc thán,


Phù Dung giang thượng điếu ngư ông.1

Dịch nghĩa:

ĐẦU ĐÔNG NĂM NHÂM TUẤT, SỨ ĐOÀN THEO ĐƯỜNG THUỴ TỪ QUẢNG ĐÔNG SANG QUẢNG TÂY, HOẠ THƠ TRỊNH CẤN TRAI THEO VẬN LẠP ÔNG, BA MƯƠI VẦN

Đi hết nam bắc rồi lại sang tây đông, Muôn nghìn sông núi tầm mắt vô cùng.

Một áng mây ngoài xa gợi lòng thương nhớ, Ba canh làm bạn với vầng trăng sáng giữa trời. Rượu uống được vô lượng, tài tình hợp nhau, Người chịu quên nỗi lo, thì sức học đầy đủ.

Giấc mộng xưa nay đã tàn, một mình than thở, Trên sông Phù Dung, có một lão ngư ngồi câu. Dịch thơ:

Bắc nam cùng cực lại tây đông, Muôn núi nghìn sông mắt hoá không. Một tấm lòng thương mây biếc phủ, Ba canh dạ giãi bóng trăng lồng.

Rượu hay vô lượng, tài tình lắm, Người chịu quên sầu, sức học thông. Kim cổ mộng tàn than thở mãi,

Phù Dung đầu bến một ngư ông.


54.

2.

孤舟入廣月初冬綠水悠悠客思濃龍母廟前紅葉落粵王臺上白雲封乾坤遺恨人何在今古流愁水自舂霜滿江天家萬里驚回旅夢五更鐘

Cô chu nhập Quảng nguyệt sơ đông, Lục thuỵ du du khách tứ nùng.

Long mẫu miếu tiền hồng diệp lạc,2

Việt vương đài thượng bạch vân phong.3 Càn khôn di hận nhân hà tại?

Kim cổ lưu sầu thuỵ tự thung. Sương mãn giang thiên gia vạn lý, Kinh hồi lữ mộng ngũ canh chung. Dịch nghĩa:

Sông xanh dài dằng dặc khiến cảm xúc khách thêm nồng.

Trước miếu Long mẫu, lá phong đỏ rơi rụng, Trên đài Việt vương mây trắng phủ vây.

Đất trời còn lưu nỗi hận, mà nay người ở đâu? Xưa nay nỗi sầu vẫn trôi như dòng nước chảy trào.

Đầy trời sương giăng, nhà xa vạn dặm,

Làm kinh giấc mộng người lữ thứ là tiếng chuông canh năm.

Dịch thơ:

Thuyền côi đến Quảng tháng đầu đông, Sông biếc mênh mông nỗi nhớ nồng.

Lá thắm đầu đền Long mẫu rụng,

Mây xanh trên đỉnh Việt vương phong. Đất trời để hận, người đâu tá?

Kim cổ trôi sầu, xuân nhuốm sông. Trời bến sương giăng quê vạn lý,

Canh năm mộng khách tiếng chuông lồng.


55.

3.

九轉迴腸似曲江關山迢遞別南邦恨誰輕薄花流水憐我清寒月到窗數著爭先棋局勝五更殺退睡魔降忽聞霜裏梅花曲想是山城故國腔

Cửu chuyển hồi trường tự khúc giang,4 Quan sơn điều đệ biệt Nam bang.

Hận thuỳ khinh bạc hoa lưu thuỵ, Liên ngã thanh hàn nguyệt đáo song. Sổ trứ tranh tiên kỳ cục thắng,

Ngũ canh sát thối thuỳ ma hàng. Hốt văn sương lý Mai hoa khúc,

Tưởng thị Sơn Thành cố quốc xoang.5

Dịch nghĩa:

Ruột quặn đau chín khúc tựa sông uốn cong, Quan san xa xôi giã biệt nước Nam.

Hoa hận ai khinh bạc mà trôi trên dòng nước, Trăng thương ta lạnh lẽo nên ghé vào song cửa.

Thuyền côi vào đất Quảng vào tháng đầu mùa

đông,


1 Phù Dung giang: sông Phù Dung, tức sông Chương ở Giang Tây. Sách Nam Khang huyện chí chép: sông Chương giang ở Huyện Nam, còn có tên là sông Phù Dung. Tương truyền, vào thời Đường hai bên bờ sông trồng rất nhiều hoa phù dung (hoa sen) nên mới có tên ấy. Sông ở huyện Chính An, tỉnh Quý Châu. 2 Long mẫu miếu: miếu Long mẫu.

3 Việt vương đài: xem chú thích ở phần thơ Trịnh Hoài Đức.

4 Cửu chuyển hồi trường: Ruột thắt chín lần. Báo Nhậm Thiếu Khanh thư 報任少卿書 của Tư Mã Thiên có câu: Thị dĩ trường nhất nhật nhi cửu hồi 是以腸一日而九迴 (Một ngày mà ruột

thắt chín lần).

5 Sơn Thành: trấn Sơn Thành, cách 30 dặm về phía tây nam huyện Nam Tĩnh, tỉnh Phúc Kiến. Ngô Nhân Tĩnh người tỉnh

Phúc Kiến. Ở đây có lẽ là quê hương của Ngô Nhân Tĩnh. Nhưng nếu hiểu “sơn thành” chỉ là thành bên núi như những bài thơ khác trong tập của Trịnh Hoài Đức, thì câu trên dịch là “Ngỡ điệu quê cũ vẳng bên thành núi”.


Mấy lần chơi cờ đều tranh thắng trước, Năm canh xua sạch lũ ma buồn ngủ.

Chợt nghe trong sương khúc nhạc Mai hoa, Ngỡ là điệu hát quê cũ vẳng ở thành trì trong núi non.

Dịch thơ:

Chín khúc ruột dần tựa khúc giang, Trời Nam xa cách mấy quan san.

Hận người khinh bạc, hoa trôi chảy, Thương khách thanh hàn, nguyệt ghé sang. Mấy cuộc chơi cờ tranh thế thắng,

Năm canh ma ngủ bị xua tan. Sương mờ nghe vẳng mai hoa khúc, Ngỡ giọng Sơn Thành quê cũ vang.


56.

4.

日 至 初 冬 夜 漸 遲天 將 景 色 更 將 宜霜 凝 橘 葉 珠 千 顆雪 點 梅 花 玉 一 枝桂 嶺 嶺 頭 雲 變 態巴 江 江 上 水 流 岐英 雄 事 業 同 今 古滿 目 山 河 有 所 思

Nhật chí sơ đông dạ tiệm trì,

Thiên tương cảnh sắc cánh tương nghi. Sương ngưng quất diệp châu thiên khoả, Tuyết điểm mai hoa ngọc nhất chi.

Quế lĩnh lĩnh đầu vân biến thái,1

Ba giang giang thượng thuỵ lưu kỳ.2 Anh hùng sự nghiệp đồng kim cổ, Mãn mục sơn hà hữu sở tư.

Dịch nghĩa:

Tiết trời vào tháng đầu đông, đêm dần tối chậm,

Trời vẽ thêm cảnh sắc thật là hợp.

Sương ngưng trên lá quýt như ngàn hạt châu, Tuyết điểm trên hoa mai tựa cành ngọc.

Đầu núi Quế mây thường biến đổi hình trạng, Trên sông Ba giang nước chảy vòng vèo.

Sự nghiệp anh hùng xưa nay đều giống nhau,



1 Quế lĩnh: núi Quế, ở phía bắc huyện Lâm Vũ, tỉnh Hồ Nam ba mươi dặm, còn có tên Hương Hoa lĩnh, thế núi hùng vĩ, uốn quanh huyện, có nhiều quặng thiếc. Núi Quế lĩnh ở phía tây huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông bốn mưoi dặm. Sách Minh nhất thống chí, Quế lĩnh bắt nguồn từ Quế Vĩnh, núi ấy có nhiều quế, nên có tên ấy. Có núi Quế lĩnh cách trăm hai mươi dặm về phía tây huyện Phú Xuyên tỉnh Quảng Tây.

2 Ba Giang: sông Ba, còn gọi là Nam Giang, bắt nguồn từ núi

Đại Ba phía bắc huyện Nam Giang, Tứ Xuyên, dòng chảy về nam qua huyện Ba Trung, lại xuống đông nam hợp với sông Ba Thuỵ, nên gọi là Ba Giang.

Núi sông thu vào đầy mắt, trong lòng có mối nghĩ suy.

Dịch thơ:

Nắng hửng đầu sông, đêm loãng dần, Trời pha cảnh sắc đẹp muôn phần.

Sương gieo lá quýt, ngàn viên ngọc, Tuyết điểm hoa mai, một nhánh ngần. Quế lĩnh đầu non mây biến ảo,

Ba giang trên bến sóng lăn tăn. Anh hùng sự nghiệp như kim cổ, Mắt ngắm sơn hà cảm xúc dâng.


57.

5.

匆匆孤雁渡南飛遠地蕭條日夕暉灘上客船騎石過溪前村女採桑歸無邊落葉梅花徑不盡輕煙掩竹扉忽憶去年今日事朝陽閣上賜寒衣

Thông thông cô nhạn độ Nam phi, Viễn địa tiêu điều nhật tịch huy.

Than thượng khách thuyền kỳ thạch quá, Khê tiền thôn nữ thái tang quy.

Vô biên lạc diệp mai hoa kính, Bất tận khinh yên yểm trúc phi. Hốt ức khứ niên kim nhật sự,

Triêu Dương các thượng tứ hàn y.3

Dịch nghĩa:

Cánh nhạn vội vàng bay về phương Nam, Cảnh vật nơi đất khách xơ xác, bóng mặt trời chiều tà,

Ở trên bến thuyền khách cỡi trên đá mà đi qua, Trước khe cô gái thôn quê hái dâu trở về.

Hoa mai lá rụng bời bời trên đường,

Khói nhẹ phơ phất cửa tre đóng kín suốt ngày. Chợt nhớ lại chuyện ngày này năm trước, Trên điện Triêu Dương ta được ban áo lông cừu.

Dịch thơ:

Về Nam cánh nhạn lướt vội vàng, Đất lạ đìu hiu bóng xế ngang.

Trên bến thuyền ai lèn đá vượt, Đầu khe thôn nữ hái dâu ngàn. Vô biên lá rụng đường hoa phủ, Bất tận sương mờ cửa trúc vương. Chợt nhớ hôm này năm ngoái đó,

Áo cừu ban giữa điện Triêu Dương.


3 Triêu Dương: điện Triêu Dương ở kinh thành Huế, Phú Xuân.

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí