Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 44


Khai tận hương tâm thu hậu cúc, Mộng hồi xuân sắc lạp tiền mai. Biệt li tự cổ đa như ngã,

Mạc thính thành đầu hoạ giốc ai.

Dịch nghĩa:

Mái chèo của người khách xa quẫy nước trong cõi mịt mờ,

Khắp sông hồ trăng thanh gió mát làm bà mai mối.

Khói sóng sông hồ còn đợi người công hầu về buông câu,

Mái chèo đáng nên làm tài tể tướng.

Nở hết lòng quê chính là đóa cúc sau mùa thu, Mơ về cảnh xuân sắc ấy đóa mai vàng trước tháng chạp.

Xa cách xưa nay phần nhiều đều như ta,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Chớ nghe tiếng tù và buồn bã vang ở đầu thành.

Dịch thơ:

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 44

Viễn khách khua chèo, bát ngát thay, Đầy hồ trăng gió ấy làm mai.

Buông câu khói sóng, công hầu đợi, Lèo lái thuyền kia, tể tướng tài.

Nở hết lòng quê đôi khóm cúc, Mộng về xuân sắc đoá hoa mai. Xưa nay xa cách ta cùng phận, Tiếng sáo đầu thành chớ lắng tai.


143.

11.

萬金難買舊時春湖海風塵未了因乍憶相思千里樹漫燒煩惱一輿薪水無凝滯長懷智山不遷移靜養仁豈獨在朝能愛國天涯海角亦人臣

Vạn kim nan mãi cựu thời xuân, Hồ hải phong trần vị liễu nhân. Sạ ức tương tư thiên lý thụ,

Mạn thiêu phiền não nhất dư tân. Thuỵ vô ngưng trệ trường hoài trí, Sơn bất thiên di tĩnh dưỡng nhân. Khởi độc tại triều năng ái quốc, Thiên nhai hải giác diệc nhân thần. Dịch nghĩa:

Muôn ngàn vàng cũng khó mua được mùa xuân xưa,

Dầu dãi phong trần nơi hồ biển vẫn chưa hiểu thấu lẽ đời.

Chợt nhớ cây ngàn ngàn dặm thương nhau, Đừng đốt phiền não một xe củi.

Ta thường mong trí như dòng nước trôi mãi không ngừng,

Cũng thường dưỡng đức nhân như ngọn núi bất động.

Nào phải ở triều mới là người yêu nước,

Dẫu nơi chân trời góc biển cũng vẫn là bầy tôi trung.

Dịch thơ:

Ngàn vàng khó chuộc sắc xuân xưa, Hồ hải phong trần, thấu lẽ chưa?

Chợt nhớ thương cây, ngàn dặm cách, Chớ thiêu phiền não, một xe vừa.

Thường mong trí, nước không ngừng chảy, Tĩnh dưỡng nhân, non vẫn đứng trơ.

Đâu cứ giữa triều là ái quốc, Chân trời góc bể vẫn tôi thừa.


Xuân sắc thời xưa vàng khó chuộc, Phong trần hồ hải lẽ chưa thông. Ngàn cây thương nhớ tình muôn dặm, Phiền não đem thiêu củi một lồng.

Mong trí như sông hằng chảy mãi, Dưỡng nhân tựa núi giữa bầu không. Hẳn đâu yêu nước khi triều nội?

Góc biển chân trời dạ vẫn trung.


144.

12.

局 罷 征 誅 勝 負 分乘 槎 萬 里 答 明 君還 憐 過 甲 丁 年 苦更 憶 衣 冠 乙 夜 勤去 日 恐 多 離 窟 兔歸 時 喜 盡 負 山 蚊莫 嫌 艇 小 難 容 膝河 岳 高 深 異 所 聞

Cục bãi chinh tru thắng phụ phân, Thừa tra vạn lý đáp minh quân.

Hoàn liên quá giáp đinh niên khổ, 1

Cánh ức y quan ất dạ cần.2 Khứ nhật khủng đa li quật thố, Quy thời tận hỵ phụ sơn văn.

Mạc hiềm đĩnh tiểu nan dung tất, Hà nhạc cao thâm dị sở văn.

Dịch nghĩa:

Cuộc chiến chinh đã dứt, thắng thua đã định, Cỡi thuyền đi muôn dặm đền đáp ơn vua.

Còn thương nhớ nỗi khổ binh đao năm ấy, Lại càng nhớ mối tình áo mão ân cần.



1 Hai câu này có lẽ nhắc việc mùa xuân năm Đinh tỳ, 1797, nhân tiết Vạn thọ, ban áo cho các quan theo thứ bậc, và năm nay cũng là năm chiến trận rất khốc liệt.

2 Ất dạ: tức canh hai nửa đêm, khoảng 10 giờ tối.


Ngày rời nước lo sợ như thỏ rời khỏi hang, Lúc trở về vui mừng tựa muỗi mòng vác được núi non.

Đừng chê con thuyền nhỏ khó dung chân,

Núi sông cao rộng khác với những điều mình nghe.

Dịch thơ:

Cuộc cờ đã vãn thắng thua phân, Vạn lý bè giong, báo thánh quân. Còn nhớ năm nào chinh chiến khổ, Thêm thương đêm ấy áo xiêm cần. Ngày đi, thỏ sợ rời hang tựa,

Trở lại, mòng vui vác núi bằng. Chớ ngại thuyền con không đủ chỗ, Kỳ thay sông núi lạ vô ngần.


Chiến trận hơn thua đã tỏ tường, Ơn vua đền đáp, cỡi bè giương. Giáp binh lao khổ năm nao nhớ, Áo mão ân cần buổi ấy thương. Vác núi mòng vui ngày trở lại, Rời hang thỏ sợ buổi lên đường.

Chớ hiềm thuyền nhỏ khôn dung gối, Sông núi cao sâu khác lẽ thường.


145.

13.

雪 霽 雲 晴 望 帝 閽楚 南 一 路 沐 天 恩江 濱 月 冷 魚 龍 寂岳 峙 雲 開 虎 豹 尊水 閣 青 青 松 作 瓦幽 家 落 落 竹 爲 門三 浯 石 鏡 留 千 古靈 鑑 人 間 翰 墨 根

Tuyết tễ vân tình vọng đế hân, Sở nam nhất lộ mộc thiên ân.

Giang tân nguyệt lãnh ngư long tịch, Nhạc trĩ vân khai hổ báo tôn.

Thuỵ các thanh thanh tùng tác ngoã, U gia lạc lạc trúc vi môn.

Tam Ngô thạch kính lưu thiên cổ, Linh giám nhân gian hàn mặc căn. Dịch nghĩa:

Mây tan tuyết tạnh nhìn về cõi quê vua, Suốt đường Sở nam đều gội ơn trời.

Nơi bến sông, vầng trăng lạnh lẽo, cá rồng yên vắng,

Chỗ ngọn núi cao, mây tan hết lộ dáng hổ báo ngồi.

Đài gác bên sông có tùng xanh lợp ngói, Nhà vắng lưa thưa trúc ken làm cửa.

Gương đá ở Tam Ngô còn truyền thiên cổ,

Soi xét ngọn nguồn chuyện văn chương trong cõi đời.

Dịch thơ:

Xa ngóng quê nhà sạch tuyết mây, Sở nam suốt lối gội ơn dày.

Bến sông trăng buốt ngư long vắng, Đỉnh núi mây tan hổ báo bày.

Khóm trúc lưa thưa đan lối ngõ, Bóng tùng ngăn ngắt rợp lâu đài. Tam Ngô gương đá truyền thiên cổ, Soi xét văn từ giữa cõi đây.


146.

14.

遊 人 漫 道 別 離 難一 片 來 誠 九 有 安樹 擁 圍 屏 青 岸 際山 披 圖 畫 白 雲 端多 愁 去 日 匆 匆 過無 事 歸 時 仔 細 看日 暮 停 船 親 友 問繡 衾 玉 枕 不 禁 寒

Du nhân mạn đạo biệt li nan, Nhất phiến lai thành cửu hữu an. Thụ ủng vi bình thanh ngạn tế, Sơn phi đồ hoạ bạch vân đoan. Đa sầu khứ nhật thông thông quá, Vô sự quy thời tử tế khan.

Nhật mộ đình thuyền thân hữu vấn, Tú khâm ngọc chẩm bất câm hàn. Dịch nghĩa:

Người lên đường chớ nói chia li là khó,

Một tấm lòng thành thì chín việc đều bình an. Cây cối vây quanh ôm khoảng bờ núi xanh, Núi non khoác bức họa đồ đầu làn mây trắng. Ngày ra đi nhiều ưu sầu nên đi qua vội vàng, Lúc trở về không còn việc gì mới được nhìn kỷ càng.

Chiều tối dừng thuyền bạn bè người thân thăm hỏi,

Rằng dẫu mặc áo gấm gối gối ngọc cũng chẳng ngăn nổi cái rét căm căm.

Dịch thơ:

Người đi chớ nói khó li tan,

Một tấm lòng thành, chín việc an. Cây ấp bình phong, che núi biếc,

Non choàng tranh vẽ, khoác mây nhàn. Ngày đi sầu lắm, trông vội vã,

Lúc lại việc không, ngắm kỹ càng. Chiều tối dừng thuyền, thân hữu hỏi, Áo là gối ngọc, lạnh lồng sang.


147.


15.

朝 朝 飛 去 暮 飛 還語 語 雙 雙 雲 水 間卻 笑 塵 中 人 役 役不 如 洲 上 鳥 關 關欲 酬 雨 露 恩 銘 骨安 得 神 仙 藥 駐 顏莫 把 歸 期 燈 下 數且 看 山 外 更 重 山

Triêu triêu phi khứ mộ phi hoàn, Ngứ ngứ sang sang vân thuỵ gian. Khước tiếu trần trung nhân dịch dịch,

Bất như châu thượng điểu quan quan1. Dục thù vũ lộ ân minh cốt,

An đắc thần tiên dược trú nhan. Mạc bả quy kỳ đăng hạ số,

Thả khan sơn ngoại cánh trùng sơn.

Dịch nghĩa:

Mỗi sớm bay đi, chiều tối trở về, Hót líu lo giữa cõi nước mây.

Lại cười cho người trong cõi trần luôn tất bật, Chẳng bằng con chim trên bờ bãi kêu quan quan.

Muốn đáp đền ơn mưa móc, ghi khắc tận tủy xương,

Làm sao được thuốc tiên mà giữ mãi vẻ trẻ trung.

Dưới ánh đèn chớ đếm ngày trở về,

Hãy cứ nhìn xem ngoài núi kia còn có núi trùng trùng.

Dịch thơ:

Chiều tối quay về, sớm lại bay, Líu lo so cánh giữa sông mây. Cười khách tục kia còn bận bịu, Thua cả thư cưu bãi nước dày. Mưa móc đáp đền ơn khắc cốt, Thuốc tiên khôn giữ vẻ hình hài. Bên đèn chớ đếm ngày về nữa, Ngoài núi kìa xem núi xếp đầy.


148.

16.

漫 想 歸 途 尚 萬 千濃 愁 空 付 淡 雲 煙暫 乘 湖 上 船 侯 伯常 滿 樽 中 酒 聖 賢堤 柳 細 腰 新 別 恨江 梅 瘦 骨 舊 因 緣歷 嘗 世 事 無 窮 味且 讀 南 華 第 一 篇


1 Câu này xuất ý từ trong Kinh thi: Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.

Mạn tưởng quy đồ thượng vạn thiên, Nùng sầu không phó đạm vân yên. Tạm thừa hồ thượng thuyền hầu bá, Thường mãn tôn trung tửu thánh hiền. Đê liễu tế yêu tân biệt hận,

Giang mai sấu cốt cựu nhân duyên. Lịch thường thế sự vô cùng vị, Thả độc Nam hoa đệ nhất thiên.

Dịch nghĩa:

Đừng nghĩ rằng đường trở về còn ngàn vạn dặm đường,

Mối sầu chan chứa cứ phó mặc cho khói mây làm tan đi.

Tạm cho rằng là người công hầu cỡi thuyền trên sông hồ,

Hay như thánh hiền rượu trong chén thường đầy.

Liễu nơi bờ đê dáng nhỏ chắc vì nỗi hận chia li mới,

Mai mọc bên sông xương gầy hẳn đợi mối duyên xưa.

Việc đời đã trải hết bao mùi vị,

Lại đọc chương đầu sách Nam Hoa kinh.

Dịch thơ:

Chớ nghĩ đường xa cách vạn ngàn, Sầu dâng phó mặc khói mây giăng. Trên hồ thuyền lướt như hầu bá, Trong chén rượu tràn ấy thánh nhân. Đê liễu vóc gầy, thêm hận biệt,

Mai sông xương xẩu, nhớ duyên trần. Chuyện đời từng trải bao mùi vị,

Lại đọc Nam Hoa dưỡng tính chân.


149.

17.

試 以 鹽 梅 鼎 鼐 調宦 途 方 覺 海 同 遙獨 憐 山 色 文 章 老多 悟 花 顏 粉 黛 嬌遠 望 雲 愁 秋 淡 淡孤 眠 雨 恨 夜 蕭 蕭灘 聲 醒 起 鄉 關 夢客 意 天 心 兩 寂 寥

Thí dĩ diêm mai đỉnh nãi điều,

Hoạn đồ phương giác hải đồng diêu. Độc liên sơn sắc văn chương lão, Đa ngộ hoa nhan phấn đại kiều.

Viễn vọng vân sầu thu đạm đạm, Cô miên vũ hận dạ tiêu tiêu.

Than thanh tỉnh khởi hương quan mộng, Khách ý thiên tâm lưỡng tịch liêu.

Dịch nghĩa:

Thử đem mai và muối bỏ vào vạc mà hoà,


Mới biết con đường làm quan xa vời tựa biển cả.

Riêng thương cho sắc núi già như chuyện văn chương,

Thường hiểu vẻ hoa đẹp như son phấn thiếu nữ điểm trang.

Xa xa nhìn mây buồn, sắc trời thu nhàn nhạt, Giấc ngủ lẻ loi trong mưa hận, đêm tối đìu hiu. Tiếng sóng bờ sông làm thức giấc mộng quê hương,

Ý khách và lòng trời cả hai đều vắng lặng.

Dịch thơ:

Mai muối thử đem bỏ vạc điều, Đường quan xa tựa biển sông triều. Văn chương, sắc núi, thương già cả, Mày phấn, môi hoa, biết mỹ miều.

Xa ngóng mây sầu, thu quạnh quẽ, Giấc buồn mưa hận, tối đìu hiu.

Sóng bờ vỗ thức quê hương mộng, Ý khách lòng trời cũng tịch liêu.


150.

18.

沛爾升騰得雨蛟春囘銅柱舊分茅漫誇異代蕭曹事可愛同心管鮑交遠樹朝橫雲出岫寒煙晚帶鳥歸巢風清月白滄江上忽憶當年載酒肴

Bái nhĩ thăng đằng đắc vũ giao, Xuân hồi đồng trụ1 cựu phân mao. Mạn khoa dị đại Tiêu Tào sự2, Khả ái đồng tâm Quản Bão giao3. Viễn thụ triêu hoành vân xuất tụ, Hàn yên vãn đới điểu quy sào.

Phong thanh nguyệt bạch thương giang thượng,

Hốt ức đương niên tái tửu hào.

Dịch nghĩa:

Thuyền nhảy vọt lên như rồng được mưa, Xuân về nơi trụ đồng (chỉ Quảng Đông) cỏ tranh mọc như xưa.


1 Đồng trụ: cột đồng. Lâm ấp ký chép: Mã Viện trồng hai cây trụ đồng ở nam giới Tượng Lâm để chia ranh giới với nước Tây Đồ. Các thuyết xưa nói rằng, nay nằm ở mé tây huyện Khâm tỉnh Quảng Đông. Còn Tượng Lâm là vùng đất Thuận Hoá của nước An Nam (Việt Nam ta). Ở đây Trịnh Hoài Đức cũng như Ngô Nhân Tĩnh đều nói đến cột đồng do Mã Viện dựng ở Quảng Đông.

2 Tiêu, Tào: tức Tiêu Hà, Tào Sâm. Có câu Tiêu quy Tào tuỳ, tức Tiêu Hà đời trước chế tác pháp lệnh, Tào Sâm đời sau vẫn tuân theo pháp lệnh. (Theo Từ nguyên)

3 Quản, Bão: tức Quản Trọng và Bão Thúc Nha, hai ông là bạn

thân thiết tri âm của nhau.

Chớ khen chuyện Tiêu Hà, Tào Sâm khác đời nhưng vẫn làm theo,

Đáng ưa thay tình bạn một lòng một dạ của Quản Trọng và Bão Thúc Nha.

Mây sớm ra khỏi núi giăng ngang cây ngàn, Chim chiều bay về tổ mang theo khói lạnh. Trên sông xanh có trăng trong gió mát, Chợt nhớ năm nao thuyền chở đầy rượu thịt. Dịch thơ:

Thuyền nhảy như rồng giỡn với mưa, Quảng Đông xuân đến, cỏ như xưa. Tiêu, Tào chuyện cũ, xin đừng nhắc, Quản, Bão giao tình, thật đáng ưa. Mây sớm rời non, giăng lối thẳm, Chim chiều về tổ, đẫm sương thưa. Trăng thanh gió mát trên sông biếc, Chợt nhớ năm nao rượu thịt thừa.


151.

19.

虎門乍入士心豪寸舌鋼啣百鍊刀知是燕庭能錫土敢誇越國慣征袍五湖風月閒蕭洒萬里江山解鬱陶歸棹忽聞吹玉笛江城一曲白雲高

Hổ Môn sạ nhập sĩ tâm hào,

Thốn thiệt cương hàm bách luyện đao. Tri thị Yên đình năng tích thổ,

Cảm khoa Việt quốc quán chinh bào. Ngũ hồ phong nguyệt nhàn tiêu sái, Vạn lý giang sơn giải uất đào.

Quy trạo hốt văn xuy ngọc địch, Giang thành nhất khúc bạch vân cao. Dịch nghĩa:

Vừa vào đến Hổ Môn, lòng kẻ sĩ hào sảng, Một tấc lưỡi cứng như gang, sắc tựa đao trăm lần mài.

Biết triều đình đất Bắc, là nơi đất thép,

Khá khen cho nước Việt quen việc mặc áo chiến chinh.

Trăng gió ngũ hồ nhàn nhã làm tiêu sái cõi lòng,

Núi sông muôn dặm làm tan hết nỗi sầu muộn. Quay mái chèo trở về, chợt nghe tiếng sáo ngọc trổi lên,

Một khúc nhạc làm cao cả làn mây trắng nơi giang thành.

Dịch thơ:

Hổ Quan vừa đến, sĩ tâm hào, Tấc lưỡi đầy gang, sắc tựa đao.


Dẫu biết Yên đình nơi đất thép, Khen cho Việt quốc mặc chinh bào. Ngũ hồ trăng gió lòng tiêu sái,

Vạn lý non sông giãi nỗi sầu.

Vẫy nước chèo khua lồng tiếng địch, Giang thành một khúc trắng mây cao.


152.

20.

歸去來兮倚棹歌古今勝景兩番過水憐清淡無嫌遠山愛高奇不厭多一帶江寒懷楚客三更明月憶秦娥夜闌酒盡香鑪燼生火烹茶逐睡魔

Quy khứ lai hề ỵ trạo ca,1

Cổ kim thắng cảnh lưỡng phiên qua. Thuỵ liên thanh đạm vô hiềm viễn, Sơn ái cao kỳ bất yếm đa.

Nhất đới hàn giang hoài Sở khách,2 Tam canh minh nguyệt ức Tần nga.3 Dạ lan tửu tận hương lư tẫn,

Sinh hoả phanh trà trục thuỳ ma.

Dịch nghĩa:

Dựa chèo hát khúc “quy khứ lai hề” (hãy về đi thôi),

Cảnh đẹp xưa nay đã hai lần nhìn ngắm.

Ta thích sông thanh đạm nên chẳng ngại đi xa, Lại ưa núi non cao lạ nên chẳng chán nhiều.

Một dải sông lạnh lẽo khiến ta thương người khách nước Sở (Khuất Nguyên),

Ba canh trăng sáng làm ta nhớ đến cô gái đất Tần (Hằng Nga).

Đêm đã tàn, rượu đã hết, lò hương cũng lụn, Nhuốm lửa pha trà uống để xua cơn buồn ngủ. Dịch thơ:

Quẫy chèo ta hát “Hãy về a!”, Cảnh đẹp hai lần thoả ngắm qua. Thích núi cao vời, đâu chán lắm, Ưa sông thanh đạm, chẳng hiềm xa.

Gái Tần, trăng sáng thêm nhung nhớ Khách Sở, sông thu luống xót xa.

Rượu cạn đêm tàn, hương đã lụn, Đuổi cơn ma ngủ, dậy pha trà.


153.

21.

南望長安落日斜紛紛細雨點如麻鄉心不盡灘聲亂客眼無窮樹影遮難買醉人千日酒易開愁菊兩秋花十年前笑謀身拙何事多端畫足蛇

Nam vọng Trường An lạc nhật tà, Phân phân tế vũ điểm như ma.

Hương tâm bất tận than thanh loạn, Khách nhãn vô cùng thụ ảnh già.

Nan mãi tuý nhân thiên nhật tửu, Dị khai sầu cúc lưỡng thu hoa,

Thập niên tiền tiếu mưu thân chuyết, Hà sự đa đoan hoạ túc xà.4

Dịch nghĩa:

Nhìn về phía nam Trường An, mặt trời nghiêng bóng,

Mưa nhỏ mịt mờ như hạt mè bay.

Lòng nhớ quê hương cùng tiếng sóng bờ sông vỗ loạn,

Tầm mắt khách bị che bởi hàng cây vô cùng. Rượu khiến người uống say cả ngàn bữa khó mà mua được,

Đoá cúc sầu rũ hai mùa thu thì cũng dễ nở hoa. Tự cợt mười năm trước việc mưu thân vụng về,

Việc gì phải lắm chuyện vẽ rắn thêm chân?

Dịch thơ:

Nam Trường An ngóng, bóng chiều tà, Mưa rắc như mè, hạt hạt sa.

Dào dạt lòng quê, bờ sóng loạn,

Mênh mông mắt khách, bóng cây nhoà. Rượu say ngàn bữa, khôn mua được, Cúc úa hai mùa, dễ nở hoa.

Tự cợt mười năm ta vụng dại, Thêm chân cho rắn, cớ sao a?!


1 Quy khứ lai hề: một bài từ nổi tiếng của Đào Uyên Minh (Đào Tiềm) đời Tấn.

2 Sở khách: chỉ Khuất Bình (Khuất Nguyên) người nước Sở, bị

vua ruồng bỏ, buồn bã vì nỗi cô trung, ông nhảy xuống sông Mịch La tự trầm.

3 Tần nga: tức Hằng Nga, còn gọi Thường Nga, vốn người đất

Tần, lấy Hậu Nghệ, tương truyền, nàng ngửi trộm thuốc tiên của Tây Vương Mẫu cho chồng mình nên cơ thể trở nên nhẹ nhàng bay đến cung trăng. Thơ Lý Thương Ẩn có câu: “Thường Nga ưng hối thâu linh dược, Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm” (Thường Nga hối trộm thuốc tiên, Trời xanh biển biếc đêm đêm tỏ lòng – Trần Trọng San dịch).


4 Hoạ túc xà: vẽ chân cho rắn, xuất từ điển “Hoạ xà thiêm túc” (vẽ rắn thêm chân). Có người nước Sở cúng tế, ban cho xá nhân một vò rượu. Mọi người nói: Vò rượu này một người uống có thừa, mà nhiều người uống thì không đủ, hãy vẽ dưới đất một con rắn, ai vẽ xong trước thì được uống. Mọi người cho là phải, có một người vẽ gần xong con rắn, tay trái chụp lấy vò rượu, tay phải vừa vẽ vừa nói, ta có thể vẽ thêm chân cho rắn, vẽ chưa xong, thì kẻ khác vẽ xong rắn, đoạt lấy vò rượu nói: Rắn vốn không có chân, ngươi vẽ thêm chân cho rắn, thì không còn là rắn. Nói xong, cầm vò rượu mà uống hết. Người kia vì thêm chân cho rắn mà mất đi vò rượu.


154.

22.

舟中習靜養微陽保得身强謁帝王樹影依稀楓陛影天香彷彿御鑪香錦屏冬靄葡萄綠玉帳春深琥珀光遠送歸帆風拂拂計程指日到仙鄉

Chu trung tập tĩnh dưỡng vi dương, Bảo đắc thân cường yết đế vương. Thụ ảnh y hy phong bệ ảnh, 1

Thiên hương phảng phất ngự lô hương. Cẩm bình đông ái bồ đào lục,

Ngọc trướng xuân thâm hổ phách quang. Viễn tống quy phàm phong phất phất, Kế trình chỉ nhật đáo tiên hương.

Dịch nghĩa:

Trong thuyền ta tập tĩnh dưỡng chút khí dương,

Để giữ được sức khoẻ mạnh mẽ khi gặp lại vua.

Bóng cây thưa thớt kia là bóng nơi thềm phong (chỉ triều đình),

Hương trời phảng phất là hương thơm của lò hương ở cung điện.

Mùa đông nơi màn gấm được thưởng thức rượu bồ đào,

Mùa xuân nơi trướng ngọc được ban chén hổ phách.

Đưa tiễn cánh buồm xa về quê là từng ngọn gió lồng lộng,

Tính ngày về theo bóng nắng đến quê hương.

Dịch thơ:

Trong thuyền tĩnh toạ dưỡng âm dương, Thân giữ khang cường gặp đế vương.

Phơn phớt bóng cây, dường điện tía, Ngạt ngào hương lạ, tưởng lư vàng. Cẩm bình đông thưởng bồ đào tửu, Ngọc trướng xuân ban hổ phách quang. Đưa tiễn thuyền ta, từng ngọn gió,

Đếm ngày thẳng tiến, đến quê hương.


155.

23.

魏魏聖武自天生創業中興一舉成按舊年圖非在越更新國號是觀清

飄零湖海雙冬冷顛倒英雄萬里征去日旌旗今日節字雖上下亦同名

Nguy nguy thánh vũ tự thiên sinh, Sáng nghiệp trung hưng nhất cử thành. Án cựu niên đồ phi tại Việt,

Canh tân quốc hiệu thị quan Thanh. Phiêu linh hồ hải song đông lãnh, Điên đảo anh hùng vạn lý chinh.

Khứ nhật tinh kỳ kim nhật tiết,

Tự tuy thượng hạ diệc đồng danh2.

Dịch nghĩa:

Thánh Vũ vòi vọi tự trời giáng sinh,

Cử binh dựng nghiệp trung hưng một trận thành công.

Xét thấy cơ đồ năm xưa không phải chỉ ở đất Việt,

Đổi mới hiệu nước lại do nhà Thanh.

Ta lưu lạc nơi sông biển lạnh lẽo đã hai năm, Anh hùng điên đảo nơi xa vạn dặm,

Ngày trước mang tinh kỳ nay là cờ tiết,

(Quốc hiệu) chữ tuy trên dưới khác nhau nhưng cũng cùng một tên.

Dịch thơ:

Cao vời Thánh Vũ, thật trời sinh,

Dựng nghiệp trung hưng một trận thành. Thuở trước cơ đồ nào ở Việt,

Đổi thay quốc hiệu ấy do Thanh. Phiêu linh hồ hải, hai đông lạnh, Điên đảo anh hùng, vạn dặm xanh. Ngày trước tinh kỳ nay tiết việt, Chữ tuy trên dưới cũng cùng danh.


156.

24.

那能物我兩忘形百感心頭未肯寧枝弱薔薇逢夏老節堅松栢入冬青一番春雨花間夢幾度秋風酒後醒半掩蓬窓斜日影蘆花萍水小舟停

Na năng vật ngã lưỡng vong hình, Bách cảm tâm đầu vị khẳng ninh. Chi nhược tường vi phùng hạ lão, Tiết kiên tùng bách nhập đông thanh. Nhất phiên xuân vũ hoa gian mộng, Kỵ độ thu phong tửu hậu tinh.



1 Phong bệ: thềm phong, cũng như nói “phong thần” 楓 宸 , đều

là chỉ triều đình. Trong cung điện nhà Hán trồng nhiều loại cây phong, vì thế có tên ấy.


2 Đây chỉ việc cầu phong quốc hiệu, ta lấy tên là Nam Việt, nhưng nhà Thanh e ngại, đổi hiệu là Việt Nam.


Bán yểm bồng song tà nhật ảnh, Lư hoa bình thuỵ tiểu chu đình. Dịch nghĩa:

Nào ai có thể quên đi bản ngã và ngoại vật, Nên trăm niềm tâm sự vẫn chưa chịu lắng im. Cành tường vi yếu ớt gặp tiết hạ oi nồng,

Cội tùng bách cứng rắn vẫn xanh trong mùa đông.

Một giấc mộng trong hoa và mưa xuân, Mấy lần tỉnh sau bữa rượu trong gió thu. Cửa bồng nửa khép hờ, mặt trời xế bóng,

Một chiếc thuyền con đỗ trong bèo tím và hoa lau.

Dịch thơ:

Vật ngã cùng quên, chuyện khó tày! Tâm tình trăm mối chửa yên thay. Tiết dày tùng bách, đông thêm sắc, Thân mỏng tường vi, hạ luống gầy. Một trận mưa xuân, hoa lẫn mộng, Bao phen gió rét, tỉnh vùi say.

Cửa bồng nửa khép, chiều nghiêng bóng, Thuyền nhỏ bèo lau ghé chốn này.


157.

25.

白蘋紅蓼碧波澄晚泊歸舟待月升山樹風斜疎影散江梅雪冷暗香凝心酸已被詩媒苦情重應沽酒價增幾度凄凉閒欲話夏蟲難共語寒冰

Bạch tần hồng liệu bích ba trừng, Vãn bạc quy chu đãi nguyệt thăng. Sơn thụ phong tà sơ ảnh tán,

Giang mai tuyết lãnh ám hương ngưng. Tâm toan dĩ bị thi môi khổ,

Tình trọng ưng cô tửu giá tăng. Kỵ độ thê lương nhàn dục thoại, Hạ trùng nan cộng ngữ hàn băng. Dịch nghĩa:

Cỏ hồng, tần trắng, sóng xanh lắng trong, Buổi chiều thuyền về đỗ, đợi trăng lên.

Cây rừng bị gió thổi nghiêng, bóng cây thưa thớt,

Hàng mai bên sông trong tuyết lạnh, như ngưng toả hương.

Lòng ta buồn đã bị nàng thơ làm khổ,

Tình nghĩa sâu nặng nên chắc giá rượu tăng. Mấy độ lạnh lùng ta muốn định nói,

Nhưng tiếng trùng mùa hè khó nói cùng giá băng.

Dịch thơ:

Cỏ hồng tần trắng, sóng xanh trong, Thuyền muộn về ngơi, đợi nguyệt lồng. Cây núi gió tà, thưa bóng ngả,

Mai sông tuyết lạnh, thoáng hương đông. Lòng buồn đã kín, nàng thơ khổ,

Tình nặng vừa đong, giá rượu bồng. Mấy độ thê lương hòng định nói, Trùng hè khó thấu tiếng lòng đông!


158.

26.

江流不盡古今愁總爲浮生世網留脫俗未酣莊子夢謀身何用杞人憂兩年客對三更月萬里山寒一色秋日日舟中無個事每將詩酒對浮鷗

Giang lưu bất tận cổ kim sầu, Tổng vị phù sinh thế võng lưu. Thoát tục vị hàm Trang tử mộng, Mưu thân hà dụng Kỵ nhân ưu.1

Lưỡng niên khách đối tam canh nguyệt, Vạn lý sơn hàn nhất sắc thu.

Nhật nhật chu trung vô cá sự, Mỗi tương thi tửu đối phù âu. Dịch nghĩa:

Dòng sông trôi mãi nỗi sầu xưa nay,

Chỉ còn kiếp sống trôi nổi trong cái lưới cuộc đời.

Bảo là thoát tục, nhưng còn chưa say mộng như Trang Tử,

Nếu là lo cho thân mình thì cần gì nỗi lo của người nước Kỵ.

Hai năm làm khách bạn cùng trăng đêm, Vạn dặm non núi lạnh lẽo hoà trong màu thu. Ngày ngày trong thuyền ta chẳng có việc gì, Đành mang thơ rượu bạn cùng lũ cò.

Dịch thơ:

Sông trôi bất tận cổ kim sầu, Giữa lưới đời còn kiếp nổi trôi.

Thoát tục chưa say Trang Tử mộng, Mưu thân nào sá Kỷ nhân rầu.

Hai năm khách với ba canh nguyệt, Vạn dặm non hoà một sắc thu.

Sớm sớm giữa thuyền ta rảnh việc, Thì đem thơ rượu bạn phù âu.


159.

27.


1 Kỵ nhân ưu: nỗi lo người đất Kỵ (đã chú ở trên.)


滄浪曲罷椏邊吟一片樓臺露藹深山寺寒鐘聲細細江船明月夜沈沈幾囘雨酒他鄉淚兩度花開故國心車墜良鄉休再道歸帆十月到湘陰

Thương Lang khúc bãi liễu biên ngâm, Nhất phiến lâu đài lộ ái thâm.

Sơn tự hàn chung thanh tế tế,

Giang thuyền minh nguyệt dạ trầm trầm. Kỵ hồi vũ sái tha hương lệ,

Lưỡng độ hoa khai cố quốc tâm. Xa truỳ lương hương hưu tái đạo,

Quy phàm thập nguyệt đáo Tương Âm.

Dịch nghĩa:

Bên rặng liễu ngâm xong khúc Thương Lang, Một dải lầu đài chìm trong sương khói.

Tiếng chuông chùa trên núi lạnh lẽo, âm vang khe khẽ,

Trăng sáng cả thuyền và sông, đêm lặng chìm. Mấy lần rót rượu trong mưa hoà cùng nước mắt nơi đất khách,

Hai phen hoa nở với tấm lòng nhớ quê xưa. Xe dừng nơi quê khách, xin đừng nói nữa, Cánh buồm trở về quê hương, tháng mười mới đến sông Tương Âm.

Dịch thơ:

Bên liễu ngâm tàn khúc sóng Thương, Lâu đài một mảng nhuộm sương ngàn. Chuông đêm chùa núi âm thoang thoảng, Trăng rọi thuyền sông bóng vấn vương. Mấy bận mưa tuôn dòng lệ khách,

Hai lần hoa nở dạ quê hương. Xứ người lần lữa xin đừng nhắc,

Thuyền đến Tương Âm giữa tiết sương.


160.

28.

潇湘廟外淨雲嵐草樹高低翠色參隔岸孤村紅日影橫空秋鴈碧江涵行吟流水詩豪動坐對青山酒興酣物外無窮閒世界愧無半語晉清談

Tiêu Tương miếu ngoại tịnh vân lam, Thảo thụ cao đê thuý sắc tham (sâm). Cách ngạn cô thôn hồng nhật ảnh, Hoành không thu nhạn bích giang hàm.

Hành ngâm lưu thuỵ thi hào động, Toạ đối thanh sơn tửu hứng hàm. Vật ngoại vô cùng nhàn thế giới, Quý vô bán ngữ Tấn thanh đàm. Dịch nghĩa:

Ngoài ngôi miếu ở Tiêu Tương đã sạch lắng chướng khói,

Cỏ cây cao thấp dệt nên một màu xanh thẫm. Ngôi làng bên bờ núi nhuộm hồng trong ánh nắng chiều,

Cánh nhạn thu bay giữa trời làm xanh cả dòng sông.

Lúc đi thì ngâm nga cùng dòng sông, hứng thơ trào dâng,

Lúc ngồi bạn cùng núi xanh, hứng rượu nồng nàn.

Cảnh vật vô cùng, thế giới an lạc,

Thẹn không nửa lời nói cùng Tấn Thanh.

Dịch thơ:

Tiêu Tương ngoài bến khói mây trong, Cỏ thấp cây cao thắm sắc lồng.

Cách bãi làng côi hồng bóng ác, Ngang trời nhạn lẻ biếc dòng sông. Dạo ngâm nước chảy, tình thơ động, Ngồi bạn non xanh, hứng rượu nồng. Thế giới vô cùng nhàn khắp cõi,

Nửa lời thẹn chuyện Tấn Thanh không.


161.

29.

歸心莫嘆道途淹古跡名區愛遠瞻樹擁畫樓圍寶障澗流碧洞掛晶簾收回淨土禪機妙禁得愁城佛法嚴我既有心聞擊磬更參色相恐傷廉

Quy tâm mạc thán đạo đồ yêm, Cổ tích danh âu ái viễn chiêm. Thụ ủng hoạ lâu vi bảo chướng, Giản lưu bích động quải tinh liêm. Thu hồi tịnh độ thiền cơ diệu,

Cấm đắc sầu thành Phật pháp nghiêm. Ngã ký hữu tâm văn kích khánh,

Cánh tham sắc tướng khủng thương liêm.

Dịch nghĩa:

Lòng muốn trở về thì đừng than đường dài xa vời,

Những cổ tích danh thắng chỉ thích xa nhìn thôi.

Cây ấp lầu hoa, như bức màn báu vây quanh,

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí