Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 40


Bán thế hùng tâm không phục nhĩ, Nhị niên đại thể vị hà tai?1

Liên khanh khoáng đạt phiên thành tích, Mai oán Trang sinh nhập dạ đài.

Dịch nghĩa:

NGHE TIN HIỆP TỔNG TRẤN THÀNH GIA ĐỊNH TƯỚC TĨNH VIỄN HẦU NGÔ NHỮ SƠN, THƯỢNG THƯ CÔNG BỘ MẤT, ĐAU BUỒN LÀM THƠ

Trông ngóng về đất An Biên mà giãi mối tình cũ,

Tôi ở nơi nhà gấm (kinh thành) kinh hoàng nghe báo tin Nhữ Sơn đã mất.

Khi làm quan, anh đủ tài sức để thi thố tài năng rộng rãi,

Vì một lời nói mù mờ chẳng rõ mà chết, thật đáng đau xót.

Hùng tâm nửa đời không trở lại được,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Anh đã vì việc đại thể của đất nước trong hai năm, giờ biết nói gì đây?

Thương anh tính tình khoáng đạt, lại trở thành khối bệnh,

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 40

Đành ôm hận như Trang Sinh mà xuống suối vàng.


1 Nhị niên đại thể: đại thể hai năm, việc nước hai năm, có lẽ chỉ việc ông làm phó sứ khi đi sứ Trung Quốc cùng với Trịnh Hoài Đức vào năm 1802 đến đầu năm 1804.


拾英堂詩集

公部尙書靜遠侯吳汝山甫草

THẬP ANH ĐƯỜNG THI TẬP

CÔNG BỘ THƯỢNG THƯ TĨNH VIỄN HẦU NGÔ NHỮ SƠN PHỦ THẢO


4.

同陳俊何平赤下舟中雜咏事百年餘大義伸

行藏隨遇敢尤人也知有命當微服只爲求仁且屈身撫劍未酬邦國恨不才每悞友朋憐盛衰容易畱名節自古無多理亂臣

ĐỒNG TRẦN TUẤN, HÀ BÌNH XÍCH HẠ CHU TRUNG TẠP VỊNH

Sự bách niên dư đại nghĩa thân, Hành tàng tuỳ ngộ cảm vưu nhân. Dã tri hữu mệnh đương vi phục, Chỉ vị cầu nhân thả khuất thân.

Phủ kiếm vị thù bang quốc hận, Bất tài mỗi ngộ hữu bằng lân (liên). Thịnh suy dung dị lưu danh tiết,

Tự cổ vô đa lí loạn thần.

Dịch nghĩa:

Cố sức phò nghĩa lớn hơn trăm năm,

Tuỳ thời mà làm quan hay về nghỉ, chuyện ấy nào dám so cùng người ta.

Cũng biết có mệnh nên ta phải tuân theo,

Chỉ vì mong cầu điều nhân nên mới chịu cúi mình.

Vỗ kiếm hận chưa trả được nỗi nước nhà, Ta bất tài thường được bạn bè thương xót. Đời thịnh hay suy cũng dễ lưu danh tiết,

Từ xưa đến nay chẳng có mấy bầy tôi biết trị loạn.

Dịch thơ:

Trăm năm nghĩa cả cố khuông phò, Xuất xử theo đời, chẳng dám so.

Có mệnh cũng đành ra sức phục, Cầu nhân nên phải chịu thân co. Vỗ gươm, nợ nước chưa đền đáp, Tài thấp, bạn bè phải lắng lo.

Danh tiết thịnh suy lưu cũng dễ, Xưa nay được mấy bậc ưu nho?


5.

飄蓬斷梗共悠悠

空戴南冠萬里愁壯士自能酬國債丈夫誰肯爲身謀片心未達門重鎖一事無成淚暗流跼蹐前途天地窄帝閽徒望抱奇猷

(Kỳ nhị)

Phiêu bồng đoạn ngạnh cộng du du, Không đới nam quan vạn lý sầu.

Tráng sĩ tự năng thù quốc trái, Trượng phu thuỳ khẳng vị thân mưu. Phiến tâm vị đạt môn trùng toả.

Nhất sự vô thành lệ ám lưu. Cục tích tiền đồ thiên địa trách, Đế hôn đồ vọng bão kỳ du.

Dịch nghĩa:

Cỏ bồng bay trong gió, cành đào gãy trôi trong dòng nước, cả hai cùng buồn man mác, Đội mũ quê hương ở nơi đất khách xa xôi thêm buồn.

Tráng sĩ tự biết mình có thể báo nợ nước,

Kẻ trượng phu ai chịu mưu cầu cho thân mình. Tấm lòng của ta chưa thấu đến vua vì cửa rồng còn khoá,

Một việc làm không xong, nước mắt lại chảy thầm.

Con đường phía trước cứ quẩn quanh, trời đất sao hẹp thế?

Lòng ta ôm ấp mưu lạ cũng đành buồn trông về kinh đô.

Dịch thơ:

Bồng bay, đào gãy thảy lênh đênh, Khăn mũ quê hương, vạn dặm tình. Tráng sĩ tự hay đền nợ nước, Trượng phu há chịu béo thân mình! Tấm lòng chưa tỏ, bao lần khoá, Một việc không thành, lệ rỏ quanh. Luẩn quẩn tiền đồ, trời đất hẹp, Buồn ôm mưu lạ, ngóng kinh thành.


6.

經綸袖手恨年年舉目關河每愴然


草木盡歸秋氣色樓臺半掩夕陽天養成若訥方稱辨學到如愚始爲賢聞道謝安多勝局惟能棄子急爭先

(Kỳ tam)

Kinh luân tụ thủ hận niên niên, Cử mục quan hà mỗi sảng nhiên. Thảo mộc tận quy thu khí sắc, Lâu đài bán yểm tịch dương thiên.

Dưỡng thành nhược nạp phương xưng biện, Học đáo như ngu thuỵ vị hiền.

Văn đạo Tạ An đa thắng cục,1 Duy năng khí tử cấp tranh tiên.

Dịch nghĩa:

(Bài 3)

Bao năm hận có tài kinh luân nhưng phải bó tay,

Ngước mắt nhìn sông núi, thường rơi lệ buồn. Cây cỏ đã ngả màu sang thu,

Lầu đài khuất nửa trong bầu trời chiều. Dưỡng tính như vụng mới đáng là biết, Học đến mức như ngu mới gọi là hiền tài. Nghe nói Tạ An thường thắng thế,

Chỉ biết thí cờ tranh thế hơn.

Dịch thơ:

Bao năm ôm hận giỏi kinh luân, Mắt ngóng non sông lệ ướt ngần. Cây cỏ ngả màu thu ảm đạm,

Lầu đài khuất nửa bóng hoàng hôn. Dưỡng nên tính vụng âu rằng khéo, Học đến như ngu mới đáng tôn.

Nghe nói Tạ An thường thắng thế, Rằng hay thí tốt để tranh hơn..


7.

精忠自古有何奇話已投機更向誰世愛謙恭多見信時遭恐懼每生疑江山有夢愚臣念身事無聊聖主知早晚憑天施妙術免敎落魄久棲遲


1 Tạ An: người Dương Hạ đời Tấn, tự là An Thạch, thuở nhỏ nổi tiếng, được mới làm quan nhưng không ra, ẩn cư ở vùng Đông Sơn, dẫn người kỷ đi cùng. Người thời ấy có câu rằng: An Thạch bất xuất, như thương sinh hà? (An Thạch không làm quan, dân chúng biết làm thế nào?) Đến năm ông hơn 40 tuổi mới ra làm quan tư mã cho Hoàn Ôn, ông cùng cháu của mình là Tạ Huyền chống địch lập được công lớn, làm quan đến chức Thái bảo, lúc ông mất được tặng chức Thái phó, nên người đời gọi ông là Tạ Thái phó.

(Kỳ tứ)

Tinh trung tự cổ hữu hà kỳ,

Thoại dĩ đầu cơ cánh hướng thuỳ? Thế ái khiêm cung đa kiến tín, Thời tao khủng cụ mỗi sinh nghi.

Giang sơn hữu mộng ngu thần niệm, Thân sự vô liêu thánh chủ tri.

Tảo vãn bằng thiên thi diệu thuật, Miễn giao lạc thác cửu thê trì.

Dịch nghĩa:

(Bài 4)

Một lòng trung thành xưa nay chuyện ấy có lạ gì?

Lời nói đã tâm đầu ý hợp, nhưng biết nói cùng ai?

Đời thích sự khiêm cung, thường được xem trọng,

Lúc gặp việc hay hoảng hốt, bị sinh nghi ngờ. Trong giấc mơ bầy tôi vẫn luôn nhớ nghĩ đến sông núi quê hương,

Thánh chúa biết thân thế của bầy tôi vẫn chẳng được gì.

Mỗi sớm mỗi tối, cầu xin trời ra ơn làm phép màu,

Để ta khỏi phải lưu lạc lần lữa nơi đất khách.

Dịch thơ:

Tự cổ trung trinh có lạ gì? Những lời thật dạ, tỏ cùng ai?

Khiêm cung đời thích thường tin tưởng, Hoảng hốt nhiều phen bị ghét nghi.

Sông núi mơ màng, thần vẫn nhớ, Tấm thân chẳng đoái, chúa hằng ghi. Phép màu hôm sớm xin trời giúp, Đừng để phiêu lưu mãi xứ này.


8.

招擕赤下汎舟遊鐡巷閒觀暫解憂引出至剛因地利鑄成大器在人謀碧峯圍繞千重隔绿樹陰濃一色秋聞道龍山多勝景共君登望莫淹畱

(Kỳ ngũ)

Chiêu huề Xích hạ phiếm chu du, Thiết hạng nhàn quan tạm giải ưu. Dẫn xuất chí cương nhân địa lợi, Chú thành đại khí tại nhân mưu.

Bích phong vi nhiễu thiên trùng cách, Lục thụ âm nùng nhất sắc thu.

Văn đạo Long Sơn đa thắng cảnh, Cộng quân đăng vọng mạc yêm lưu.


Dịch nghĩa:

(Bài 5)

Cùng dắt tay nhau xuống thuyền dạo sông Xích hạ

Tạm nhìn ngõ Thiết giải nỗi muộn phiền Tạo ra chất cứng rắn là nhờ ở đất

Đúc thành vật lớn là do người

Từng ngọn núi xanh vây bọc, cách trở ngàn trùng

Bóng cây rợp mát thu một màu thu Nghe nói Long Sơn nhiều cảnh đẹp Cùng anh lên ngắm, chớ chần chừ nữa. Dịch thơ:

Xích Hạ rong thuyền, tay nắm nhau, Nhàn xem ngõ Thiết tạm vơi sầu.

Đúc nên đại khí, do người tất, Tạo chất cang cường, bởi đất sâu. Núi biếc vây vòng ngàn cách trở, Cây xanh rợp mát một màu thu.

Long Sơn nghe tiếng nhiều nơi đẹp, Lên ngóng cùng anh chớ đợi lâu.


12.

和劉照半邊菊原韻靜對東籬醉一邊 黃金肯賣十分鮮 自知晚節畱餘美 也愛芳心吐未全 秋色不齊三曲徑 霜威有限一方天 既名隱逸嫌流露 含養精神待後年

HOẠ LƯU CHIẾU BÁN BIÊN CÚC NGUYÊN VẬN

Tĩnh đối đông li tuý nhất biên, Hoàng kim khẳng mại thập phân tiên. Tự tri vãn tiết lưu dư mỷ,

Dã ái phương tâm thổ vị toàn. Thu sắc bất tề tam khúc kính,

Sương uy hữu hạn nhất phương thiên. Ký danh ẩn dật hiềm lưu lộ,1

Hàm dưỡng tinh thần đãi hậu niên.

Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI BÁN BIÊN CÚC

CỦA LƯU CHIẾU

Một phen say nằm lặng bên rào đông,

Ngàn vàng chịu bán vẻ tươi tắn vẹn toàn kia không?

Tự biết vẫn còn thơm tho đến cuối mùa, Cũng thích lòng thơm vẫn chưa toả hết ra. Vẻ mùa thu chẳng bằng ba luống cúc,

Sương dày ngăn cách một phương trời.

Đã mang danh ẩn dật nên ngại hiển lộ ra ngoài, Hàm dưỡng tinh thần chờ đến năm sau.

Dịch thơ:

Một cuộc say nằm dưới giậu đông, Ngàn vàng có bán vẻ tươi không? Cuối mùa tự biết còn phô đẹp, Lòng ngát rằng ưa chửa toả nồng. Thu sắc chưa bằng ba lối nhỏ,

Sương dày phủ ngập một bầu không. Mang danh ẩn dật nên hiềm lộ,

Hàm dưỡng tinh thần đợi gió đông.


13.

和張稔溪弔蘭2原韻不共閒花植檻邊

凌空九畹占春妍根荄遠別繁華地莖葉先承雨露天清隔美人相近狎香飄。。。高懸3擬栽月殿同丹桂凡卉何由結勝緣

HOẠ TRƯƠNG NẪM KHÊ ĐIẾU LAN NGUYÊN VẬN

Bất cộng nhàn hoa thực hạm biên,

Lăng không cửu điện chiếm xuân nghiên. Căn cai viễn biệt phồn hoa địa,

Kính diệp tiên thừa vũ lộ thiên. Thanh cách mỷ nhân tương cận áp, Hương phiêu … cao huyền.

Nghĩ tài nguyệt điện đồng đan quế, Phàm huỵ hà do kết thắng duyên. Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI ĐIẾU LAN CỦA TRƯƠNG NẪM KHÊ

Chẳng chịu trồng bên rào cùng những loài hoa khác,

Hương thơm xông lên chín cõi trời cao, riêng chiếm mùa xuân.

Rễ cành khác xa với cõi đất phồn hoa, Cành lá gội ơn mưa móc trời ban trước. Thơm tho như người đẹp lại gần, Hương phảng phất … trên cao.

Nếu trồng ở cung trăng cùng loài quế đỏ,

Loài cỏ cây bình thường vì đâu kết được mối duyên cùng?

Dịch thơ:

Bên rào chẳng ở với hoa nhàn,

Hương vút chín tầng riêng chiếm xuân. Cõi đất phồn hoa, thân chẳng gởi,




1 Câu này thoát ý từ câu trong bài Ái liên thuyết của Chu Hy.

2 Nguyên văn chép , chúng tôi sửa lại là

3 Bản chúng tôi sử dụng nguyên văn bị tàn khuyết mất ba chữ.


Bầu trời mưa móc, lá thừa ơn. Thơm tho như thể gần người đẹp,

……

Cung Quảng được trồng bên quế đỏ, Vì đâu cỏ dại kết duyên thân?


14.

和香山詩社雪聲原韻楚歌當寂寂

謝咏正漫漫韻帶梅花落音凝柳葉黄1和風多殺伐共雨更摧殘聞擁藍關外韓公去馬難

HOẠ HƯƠNG SƠN THI XÃ TUYẾT THANH NGUYÊN VẬN

Sở ca đương tịch tịch, Tạ vịnh chính man man. Vận đới mai hoa lạc,

Âm ngưng liễu diệp hoàng. Hoạ phong đa sát phạt, Cộng vũ cánh thôi tàn.

Văn ủng Lam quan ngoại, Hàn công khứ mã nan.2 Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI TUYẾT THANH CỦA NHÓM THƠ HƯƠNG SƠN

Khúc ca nước Sở đang lặng lẽ, Điệu ngâm họ Tạ man mác.

Theo vần hoa mai rơi rụng, Tiếng ngừng lá liễu úa vàng. Cùng hoà với gió nghe réo rắc,

Lẫn trong tiếng mưa càng nghe phai tàn. Nghe ngoài ải Lam quan,

Ông họ Hàn khó giục ngựa đi.

Dịch thơ:

Sở ca còn vắng lặng, Tạ vịnh đã man man. Vần lẫn hoa mai rụng,

Điệu ngưng lá liễu vàng. Gió hoà nghe réo rắc, Mưa đẫm giục phai tàn. Tiếng ngựa Hàn công thúc, Ngần ngừ ải Lam quan.


1 Bản chúng tôi sử dụng nguyên văn khuyết mất hai chữ, chúng tôi đoán ý thơ bổ khuyết hai chữ diệp hoàng, chờ dịp thẩm sát lại.

2 Hai câu này xuất từ ý câu “Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền” trong bài Tả thiên chí Lam quan thị điệt tôn Tương của Hàn Dũ

để chỉ cảnh tuyết rơi dày khó đi được. Sau khi Hàn Dũ dâng tờ tâu can ngăn vua Đường Hiến Tông về việc rước xương Phật, bị biếm đi Triều Dương (Quảng Đông), đến ải Lam quan tuyết dày, ngựa không tiến lên được.


15.

和香山詩社對梅原羅浮香夢遶

半夜獨憑欄月下俱憐影山中近耐寒憂天應骨瘦覺世定心酸潔白畱人愛幽情欲話難

HOẠ HƯƠNG SƠN THI XÃ ĐỐI MAI NGUYÊN VẬN

KỲ NHẤT

La phù hương mộng nhiễu, Bán dạ độc bằng lan.

Nguyệt hạ câu liên ảnh, Sơn trung cộng nại hàn. Ưu thiên ưng cốt sấu, Giác thế định tâm toan. Khiết bạch lưu nhân ái, U tình dục thoại nan.

Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI ĐỐI MAI CỦA NHÓM THƠ HƯƠNG SƠN

Hương thơm thoảng đưa quanh giấc mộng, Nửa đêm một mình dựa lan can.

Dưới trăng cùng thương chiếc bóng, Trong núi non cùng chịu cảnh giá rét. Buồn lo đất trời nên xương xẩu gầy guộc, Biết chuyện cuộc đời nên lòng mai chua. Tính trong sạch nên được người yêu quý,

Tấm lòng sâu kín muốn nói nhưng khó tỏ bày.

Dịch thơ:

Bồng bềnh hương nhiễu mộng, Khuya tựa giậu mình ai.

Dưới nguyệt thương chiếc bóng, Trong non chịu rét dài.

Lo đời xương gầy guộc, Rõ việc dạ chua cay.

Trinh trắng bao người mến, Tình sâu khó giãi bày.


16.

其二

香風何處早梅影月移欄撲我多芳餌羞余儘素餐眼前春易占心底話尤難從此消塵慮


還期入夢看

KỲ NHỊ

Hương phong hà xứ tảo, Mai ảnh nguyệt di lan. Phốc ngã đa phương nhị, Tu dư tẫn tố xan.

Nhãn tiền xuân dị chiếm, Tâm để thoại vưu nan.

Tùng thử tiêu trần lự, Hoàn kỳ nhập mộng khan. Dịch nghĩa:

Bài hai

Gió đưa hương sớm thơm từ nơi nào nổi lên, Trăng chiếu đưa bóng hoa mai in lên lan can. Mùi hoa như bánh thơm bay vào mũi ngào ngạt,

Nghĩ thẹn cho mình cứ ăn không ngồi rồi. Trước mắt cảnh xuân dễ chiếm,

Lời nói tận đáy lòng khó nói thay.

Từ đây, những suy nghĩ trần gian tiêu mất hết, Vẫn còn chờ vào mộng xem.

Dịch thơ:

Gió thơm từ đâu đến,

Trăng chuyển bóng mai lồng. Ngào ngạt mùi thơm lạ,

Ăn không nghĩ thẹn thùng. Vẻ ngoài xuân dễ chiếm, Tấc dạ chuyện khôn cùng. Từ độ duyên trần dứt, Vẫn chờ vào mộng trông.


17.

其三

不向江南去柴門喜得看春魁才一占花候引千般白共山頭老明同月影寒先天藏這裡泰兆已開端

KỲ TAM

Bất hướng Giang Nam khứ, Sài môn hỉ đắc khan.

Xuân khôi tài nhất chiếm, Hoa hậu dẫn thiên ban.

Bạch cộng sơn đầu lão, Minh đồng nguyệt ảnh hàn. Tiên thiên tàng giá lý,1

Thái triệu dĩ khai đoan.

Dịch nghĩa:

BÀI 3

Hoa mai chẳng đi về Giang Nam, Mừng được thấy nơi cửa sài thô lậu. Trong tiết xuân, mai chiếm vị trí đầu, Mùa hoa, mai nở trước muôn hoa.

Sắc trắng chung với tuyết đầu núi, Sáng trong như bóng trăng thu.

Vẻ tiên thiên ẩn trong hoa này, Điềm thái bình đã mở ra.

Dịch thơ:

Giang Nam không chịu đến, Mừng được thấy nơi đây.

Xuân thắm mình khoe trước, Mùa hoa dẫn vạn loài.

Trắng ngần cùng tuyết núi, Sáng lạnh với trăng đầy.

Trời đất thu vào đó, Điềm vui nở chốn này.


18.

和古對梅原韻前途驚歲晚 花候已翻新 林下高眠客 月中素影人 幾囘香遶夢 數點玉鎔神 情到忘言際 空空色色身

HOẠ CỔ ĐỐI MAI NGUYÊN VẬN

Tiền đồ kinh tuế vãn, Hoa hậu dĩ phiên tân. Lâm hạ cao miên khách,

Nguyệt trung tố ảnh nhân. Kỵ hồi hương nhiễu mộng, Sổ điểm ngọc dung thần. Tình đáo vong ngôn tế, Không không sắc sắc thân. Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI THƠ CỔ ĐỐI MAI

Trên đường dài kinh hãi thấy năm đã tàn, Mùa hoa đã nở những bông hoa mới.

Trong rừng có người khách nằm cao đầu ngủ, Dưới trăng có bóng người lẻ loi.

Mấy lần hương hoa bay vào giấc mộng, Bao điểm ngọc đúc nên thần thái hoa. Tình cảm ở đời đến chỗ quên lời,


1 Tiên thiên: kinh Dịch chép: “tiên thiên nhi thiên phất vi, hậu thiên nhi phụng thiên thời” (làm trước trời nhưng không trái với trời, làm sau trời mà theo thời cơ của trời) ý nói, bậc đại nhân hợp với trời, thời cơ chưa đến vẫn làm trước trời, trời cũng


không trái với mình. Thời cơ đến, tuy làm sau trời, mà ta cũng không thể trái với trời. Tiên thiên cũng chính là tiên thiên bát quái do Phục Hy vạch ra, ở đây còn để chỉ càn khôn vũ trụ.


Mời hiểu tấm thân này là không sắc, sắc không.

Dịch thơ:

Đường thẳm e năm hết, Mùa hoa rộ nở bông.

Dưới rừng, người gối giấc, Trong nguyệt, khách riêng lòng. Mấy độ hương thơm mộng,

Bao làn ngọc điểm dung. Tình quên lời đã đạt,

Thân sắc sắc không không.


19.

冬日偕香山詩社諸子過普濟院尋梅同登彼岸雪紛紛

爲愛梅花氣味芬閒訪芳心如此1地寒憐瘦骨共斯文且看天地開春信不覺乾坤掛2夕曛塵夢時縈清夢遠一枝明月臥山雲

ĐÔNG NHẬT HÀI HƯƠNG SƠN THI XÃ CHƯ TỬ QUÁ PHỔ TẾ VIỆN TẦM MAI

Đồng đăng bỉ ngạn tuyết phân phân, Vị ái mai hoa khí vị phân.

Nhàn phỏng phương tâm như thử địa, Hàn liên sấu cốt cộng tư văn.

Thả khan thiên địa khai xuân tín, Bất giác càn khôn quải tịch huân.

Trần mộng thời oanh thanh mộng viễn, Nhất chi minh nguyệt ngoạ sơn lâm.

Dịch nghĩa:

NGÀY ĐÔNG CÙNG CÁC ÔNG Ở NHÓM THƠ HƯƠNG SƠN QUA CHÙA PHỔ TẾ TÌM MAI

Cùng lên trên bờ ấy trong tuyết bay bời bời, Chỉ vì yêu khí vị hoa mai thơm tho.

Tìm thăm lòng thơm như vùng đất này, Thương cho nhánh mai gầy gò như văn ấy. Nhìn thấy đất trời đưa tin xuân đến,

Chẳng biết càn khôn đã tối chiều.

Giấc mộng trần thường đến, giấc mộng thanh cao càng xa,

Một vầng trăng sáng ngủ lẫn trong núi mây.

Dịch thơ:

Cùng lên đồi giữa tuyết mù bay, Bởi thích hoa mai khí vị đầy.

Thăm hỏi lòng thơm như chốn ấy, Xót thương thân gộc tựa văn này,


1 Nguyên văn bị tàn khuyết mất ba chữ, chúng tôi đoán ý bổ khuyết.

2 Nguyên văn thiếu mất ba chữ, chúng tôi đoán ý thêm vào.

Mải nhìn trời đất tin xuân đến, Chẳng biết càn khôn bóng xế tây.

Thoát mộng thanh tao, mộng tục nhiễu, Một vầng trăng sáng ngủ non mây.


20.

澳門旅寓春和堂書懷白雲黃葉两悠悠

百感撩人慘淡秋天若有情應共老地如無恨亦生愁蕭蕭古木山川落滾滾長江盡夜流未卜他年如願否幾囘惆悵獨登樓

ÁO MÔN LỮ NGỤ XUÂN HOÀ ĐƯỜNG THƯ HOÀI

Bạch vân hoàng diệp lưỡng du du, Bách cảm liêu nhân thảm đạm thu. Thiên nhược hữu tình ưng cộng lão, Địa như vô hận diệc sinh sầu.

Tiêu tiêu cổ mộc sơn xuyên lạc, Cổn cổn trường giang tận dạ lưu. Vị bốc tha niên như nguyện phủ, Kỵ hồi trù trướng độc đăng lâu. Dịch nghĩa:

Ở TRỌ NHÀ XUÂN HOÀ NƠI ÁO MÔN VIẾT TẢ NỖI LÒNG

Cảnh mây trắng, lá vàng, cả hai cùng buồn man mác,

Trăm niềm cảm xúc như trêu người giữa mùa thu thảm đạm.

Trời như có tình nên cùng già cỗi,

Đất như không có nỗi hận mà cũng sinh nỗi sầu.

Cây cối xác xơ rụng rơi trong sông núi, Sông dài cuồn cuộn trôi chảy suốt đêm. Chưa biết năm nào được như ước nguyện, Bao lần buồn bã một mình lên lầu cao.

Dịch thơ:

Lá vàng mây trắng thảy man man, Trăm mối tình dâng, thu úa tàn.

Trời tựa có tình nên sắc cỗi,

Đất dường không hận cũng sầu lan. Xác xơ non núi cây rời cội,

Cuồn cuộn sông dài nước chảy khan. Chẳng biết năm nào như ước nguyện, Lên lầu mấy độ ngóng mênh mang.


21.

天時人事两相違未解他年是與非欲效塞翁期失馬



肯同莊子話亡機蓮城漠漠寒烟鎖梅嶺紛紛細雨飛撩起鄉愁憑檻望晨鐘五點日斜暉

KỲ NHỊ

Thiên thời nhân sự lưỡng tương vi, Vị giải tha niên thị dữ phi.

Dục hiệu Tái ông kỳ thất mã,1

Khẳng đồng Trang Tử thoại vong ki.2 Liên thành mạc mạc hàn yên toả, Mai lĩnh phân phân tế vũ phi.

Liêu khởi hương sầu bằng hạm vọng, Thần chung ngũ điểm nhật tà huy.

Dịch nghĩa:

(Bài 2)

Thiên thời, nhân sự, cả hai đều trái ý,

Chưa biết chuyện năm nào là đúng hay là sai. Muốn bắt chước lão già nơi biên ải ngồi yên xem việc mất ngựa,

Muốn cùng Trang Tử nói chuyện quên đi tâm cơ.

Nơi Liên thành mờ mịt khói thu phong kín, Ở Mai lĩnh mưa phùn bay bời bời.

Làm khơi dậy mối sầu quê hương, dựa lan can đứng ngóng,

Chuông sớm điểm năm tiếng, bóng mặt trời nghiêng nghiêng.

Dịch thơ:

Thiên thời nhân sự trái luôn hai, Chưa biết năm nào đúng với sai? Muốn học Tái ông cười mất ngựa, Nguyện theo Trang tử mặc quên đời. Liên thành vắng vẻ, hơi mây lạnh, Mai lĩnh dặt dìu, mưa khói bay.

Dạ trỗi tình quê ra đứng ngóng, Chuông chùa gióng giả, bóng chiều lay.


30.


1 Xuất ý từ chuyện Tái ông thất mã trong sách Hoài Nam tử. Câu chuyện ông già nơi biên ải mất ngựa mà vẫn cười trong khi mọi người đều cho đó là không may, nhưng vài ngày sau, con ngựa của ông lại dẫn về thêm một con ngựa khác, mọi người đến chúc mừng, chỉ riêng ông cho rằng đó chưa hẳn là may. Con trai ông lão, vì thấy con ngựa mới về kia đẹp nên cưỡi nó, chẳng may ngã gãy chân, mọi người cho là xui xẻo, nhưng ông lão không cho đó là xui. Vài tháng sau, người Hồ vào xâm chiếm, trai tráng trong làng đều bị sung quân, kẻ chết trận rất nhiều, chỉ riêng con ông vì què chân mà ở nhà, bảo toàn được mạng sống. Ở đây, Ngô Nhân Tĩnh muốn nói đến sự thản nhiên trước mọi sự vì hiểu biết đạo lý ẩn tàng của vũ trụ, trong hoạ có phúc, trong phúc có hoạ. Ở câu sau của bài thơ, tác giả cũng nhắc đến điều này.

2 Vong ky: quên đi cơ xảo, vứt bỏ lý trí, đây là một trong những học thuyết căn bản của tư tưởng Lão Trang. Trong tư tưởng Lão

Trang, vấn đề bỏ sự khéo léo, thông minh, trí mưu là để đạt đến sự hiểu biết bản thể, tức là biết cái không thể biết, như thế được coi như là sự đạt đạo.


同何平題懷施世禄去途渺渺似鵬程 何日同君話此生 雪點漫天封母3國梅花滿地落山城 半輪明月三更夢 一片丹心4萬里情强與何君樓上望 那堪遠塞雁啼聲

ĐỒNG HÀ BÌNH ĐỀ HOÀI THI THẾ LỘC

Khứ đồ miễu miễu tự bằng trình, Hà nhật đồng quân thoại thử sinh?

Tuyết điểm mạn thiên phong mẫu quốc, Mai hoa mãn địa lạc sơn thành.

Bán luân minh nguyệt tam canh mộng, Nhất phiến đan tâm vạn lý tình.

Cưỡng dữ Hà quân lâu thượng vọng, Na kham viễn tái nhạn đề thanh.

Dịch nghĩa:

CÙNG HÀ BÌNH LÀM THƠ, NHỚ THI THẾ LỘC

Con đường đã qua mờ mịt xa vời như đường bay của chim bằng,

Biết bao giờ được cùng anh nói chuyện cuộc đời này?

Tuyết rơi đầy trời che kín nước mẹ, Hoa mai nở rụng khắp sơn thành. Nửa vầng trăng soi suốt ba canh mộng,

Một tấm lòng son mang mối tình xa vạn dặm. Cùng anh họ Hà gượng lên lầu trông ngóng, Nào chịu nổi tiếng nhạn kêu ở miền ải xa xa. Dịch thơ:

Chim bằng hun hút tựa hành trình, Trò chuyện đời này, khi có anh.

Tuyết rắc tung trời che nước mẹ, Mai rơi ngập đất mịt sơn thành. Nửa vầng trăng tỏ, ba canh mộng, Một tấm lòng son, vạn dặm tình. Theo bước anh Hà lên gác ngóng, Miền xa nhạn vẳng, dạ không đành.


32.

畱別陳濬遠仁願學顏子心三月不違如愚方樂道若訥豈亡機一遇畱青眼幾囘憶白衣


3 Nguyên văn thiếu mất hai chữ, chúng tôi đoán ý thêm vào.

4 Nguyên văn thiếu mất hai chữ, chúng tôi đoán ý thêm vào.

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí