58.
6.
鄉殊俗異奈何如鏡裏人兮謾笑余日月似梭年易滿春秋若夢歲將除流窮世事江心白歷盡人情柳眼疏爲道親朋隨所遇暗中不愧是名譽
Hương thù tục dị nại hà như, Kính lý nhân hề mạn tiếu dư. Nhật nguyệt tự thoa niên dị mãn,
Xuân thu nhược mộng tuế tương trừ. Lưu cùng thế sự giang tâm bạch, Lịch tận nhân tình liễu nhãn sơ.
Vị đạo thân bằng tuỳ sở ngộ,
Ám trung bất quý thị danh dư (dự).
Dịch nghĩa:
Có thể bạn quan tâm!
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 39
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 40
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 41
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 43
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 44
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 45
Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.
Phong tục làng quê khác nhau biết làm thế nào? Kẻ trong gương kia giờ cũng cười nhạo ta.
Ngày tháng như thoi, tuổi dễ thêm, Xuân thu như giấc mộng, năm sắp tàn.
Sông trôi cùng thế sự nên lòng sông trắng, Liễu trải hết tình người nên mắt liễu hững hờ. Xin nhắn với người thân và bạn bè rằng ta theo cảnh ngộ,
Nhưng trong đêm tối không thẹn lòng, đó là người có danh dự.
Dịch thơ:
Thói quê khác biệt biết sao mà, Trong kính hắn cười ngạo với ta. Ngày tháng như thoi, năm dễ lấp, Xuân thu tựa mộng, tuổi e già.
Trôi cùng thế sự, lòng sông trắng, Trải hết nhân tình, mắt liễu hoa. Nhắn giúp thân bằng tuỳ cảnh ngộ, Trong đêm chẳng thẹn ấy danh gia.
59.
7.
莫道舟中一事無每看風景亦堪娛忙歸樵徑千山樹閒泊漁船兩岸蘆雪壓梅魂香共冷江流月色影同孤離家誰謂人蕭索清白天將伴遠途
Mạc đạo chu trung nhật sự vô,
Mỗi khan phong cảnh diệc kham ngu. Mang quy tiều kính thiên sơn thụ, Nhàn bạc ngư thuyền lưỡng ngạn lư. Tuyết áp mai hồn hương cộng lãnh, Giang lưu nguyệt sắc ảnh đồng cô.
Li gia thuỳ vị nhân tiêu tác,
Thanh bạch thiên tương bạn viễn đồ.
Dịch nghĩa:
Chớ nói trong thuyền ngày ngày không có chuyện gì,
Mỗi ngày xem phong cảnh, như thế cũng đủ vui.
Bác tiều vội vã trở về trên đường non giữa ngàn cây,
Thuyền chài nhàn nhã đỗ giữa hai bờ lau trắng. Tuyết ngập hồn hoa mai, hương thơm cùng nhạt,
Dòng sông trôi bóng nguyệt, bóng cùng lẻ loi. Xa nhà ai nói người tàn tạ?
Trời trong xanh và mây trắng cùng ta làm bạn trên đường xa.
Dịch thơ:
Chớ bảo trong thuyền rỗi việc thay, Rằng xem phong cảnh cũng vui vầy. Thong dong thuyền ghé đôi bờ sậy, Vội vã ai về giữa bến cây.
Tuyết ngập hồn mai, hương lạnh lẽo, Sông nhoà sắc nguyệt, bóng riêng tây. Xa nhà ai nói thân phờ phạc?
Mây trắng trời xanh bạn dặm dài.
60.
8.
江中極目翠微低山外青山望轉迷心在南邦身在北水歸東海月歸西人臨大事行無事詩到無題是大題靜坐常思先得策何須起舞待聞雞
Giang trung cực mục thuý vi đê,
Sơn ngoại thanh sơn vọng chuyển mê. Tâm tại Nam bang thân tại Bắc,
Thuỵ quy Đông hải nguyệt quy Tây. Nhân lâm đại sự hành vô sự,
Thi đáo vô đề thị đại đề.
Tĩnh toạ thường tư tiên đắc sách, Hà tu khởi vũ đãi văn kê.
Dịch nghĩa:
Giữa sông mắt ngắm thấy trời xanh như thấp xuống,
Ngoài núi còn có núi xanh, nhìn mịt mờ. Lòng ở nước Nam, thân ở đất bắc,
Nước chảy về biển Đông, trăng lặn về hướng Tây.
Người ta khi làm việc lớn thì như không có việc gì,
Thơ đến không có đề thì chính là đề lớn.
Ngồi yên lặng thường nghĩ được kế sách trước, Đâu cần phải bồn chồn chờ đến khi nghe tiếng gà gáy.
Dịch thơ:
Giữa dòng ngút ngát nước trời mây, Bát ngát non xanh, mắt ngập đầy.
Lòng ở nước Nam, thân ở Bắc, Sông về Đông hải, nguyệt về Tây. Người làm đại sự, nên vô sự,
Thơ đến vô đề, ấy đại đề.
Tĩnh toạ suy lường được kế trước, Đâu cần nhảy nhót đợi ngày mai.
61.
9.
喜盡陰雲暗雨霾眼寬天地自然佳橘留枝上黃金點雪滿山中白玉堆一路寒光供雅詠五湖清淡盪塵懷此生幸遇昇平世到處何關物我乖
Hỵ tận âm vân ám vũ mai,
Nhãn khoan thiên địa tự nhiên giai. Quất lưu chi thượng hoàng kim điểm, Tuyết mãn sơn trung bạch ngọc đôi. Nhất lộ hàn quang cung nhã vịnh, Ngũ hồ thanh đạm đãng trần hoài.
Thử sinh hạnh ngộ thăng bình thế, Đáo xứ hà quan vật ngã quai.
Dịch nghĩa:
Vui vì thấy mây mờ mưa tối tan hết,
Ánh mắt khoan hoà trời đất tự nhiên trở nên đẹp đẽ.
Trên cành quýt giữ lại từng điểm vàng óng ánh,
Trong núi non tuyết phủ đầy như gò ngọc. Suốt đường đi ánh trăng cho ta ngâm vịnh, Ngũ hồ mát mẻ làm vơi đi những niềm trần. Kiếp này may gặp được đời thái bình,
Khắp nơi đâu ngại sự vật trái ngang.
Dịch thơ:
Mừng cảnh mây mờ, mưa ám tan, Đất trời bát ngát đẹp vô vàn.
Quả vàng sóng sánh trên cành quýt, Tuyết trắng ngời ngời khắp núi non. Suốt lối ngâm nga say bóng nguyệt, Năm hồ trong trẻo vợi trần gian.
Kiếp này may sống đời bình trị, Chốn chốn nào lo sự trái ngang.
62.
10.
呼童捧出玉犀杯斟酌賓朋送舊醅側聽鑼聲知到汛坐看山色擬登臺柳愁總爲傷春盡梅瘦猶期望雪來我尚栖遲雲外遠故園叢菊向誰開
Hô đồng phủng xuất ngọc tê bôi, Kham chước tân bằng tống cựu phôi. Trắc thính la thanh tri đáo tấn,
Toạ khan sơn sắc nghĩ đăng đài. Liễu sầu tổng vị thương xuân tận, Mai sấu do kỳ vọng tuyết lai.
Ngã thượng thê trì vân ngoại viễn, Cố viên tùng cúc hướng thuỳ khai. Dịch nghĩa:
Gọi trẻ nhỏ mang chén ngọc tê, Rót rượu nhạt mời bạn bè.
Bên tai nghe tiếng chiêng vang, biết là đến bến,
Ngồi xem màu núi xanh, muốn được lên đài cao.
Liễu buồn hẳn bởi thương mùa xuân tàn tạ, Mai gầy vì còn chờ ngóng tuyết rơi.
Ta còn lần lữa nơi xa xôi,
Khóm cúc nơi vườn cũ có nở vì ai?
Dịch thơ:
Ngọc tê chén quý, gọi đồng mang, Thù tạc bạn thân, rượu rót tràn. Tai vẳng chiêng cồng, hay đến bến, Ngồi xem sắc núi, muốn lên non.
Liễu sầu cũng bởi thương xuân hết, Mai ốm âu vì ngóng tuyết sang.
Ta vẫn bôn ba ngoài xứ lạ, Vườn xưa cúc có nở hoa vàng?
63.
11.
江村寂寞石粼粼
滿目清光不染塵雨後山川增色景雪中松柏倍精神太平余尚間關日富貴人求久住春想到世情皆板著何如一度一番新
Giang thôn tịch mịch thạch lân lân, Mãn mục thanh quang bất nhiễm trần. Vũ hậu sơn xuyên tăng sắc cảnh, Tuyết trung tùng bách bội tinh thần. Thái bình dư thượng gian quan nhật, Phú quý nhân cầu cửu trú xuân.
Tưởng đáo thế tình giai bản trước, Hà như nhất độ nhất phiên tân.
Dịch nghĩa:
Xóm chài bên sông vắng vẻ, đá sỏi chon von, Cảnh sắc thanh trong không gợn chút bụi.
Sau cơn mưa, sông núi càng thêm đẹp đẽ, Trong sương tuyết, tùng bách càng xanh thêm. Trong cảnh thái bình, mà ta vẫn sống những ngày xa cách,
Phú quý giàu sang, người đời cầu mong được mãi mãi.
Nghĩ đến sự tình đời đều cứng nhắc,
Sao bằng trời đất mỗi ngày mỗi mới thêm.
Dịch thơ:
Xóm chài heo hút đá chon von,
Bát ngát thanh quang chẳng nhiễm trần. Mưa dứt non sông thêm cảnh sắc,
Tuyết pha tùng bách lắm tinh thần. Thái bình ta vẫn còn lận đận,
Phú quý ai cầu được mãi xuân. Nghĩ đến tình đời hay cứng nhắc, Sao bằng mỗi độ mới muôn phần.
64.
12.
石號繫龍恐索群輕舟方過日朝曛落花流出溪前雨孤鳥飛來嶺外雲梅以有情應骨瘦石都無意亦頭紋行人報道封川界兩廣舟程到此分
Thạch hiệu hệ long khủng sách quần, Khinh chu phương quá nhật triêu huân. Lạc hoa lưu xuất khê tiền vũ,
Cô điểu phi lai lĩnh ngoại vân. Mai dĩ hữu tình ưng cốt sấu,
Thạch đô vô ý diệc đầu văn.
Hành nhân báo đạo Phong Xuyên giới,1 Lưỡng Quảng chu trình đáo thử phân. Dịch nghĩa:
Đá gọi là buộc rồng, vì e sợ tìm đàn,
Thuyền nhẹ vừa qua nơi ấy trong bóng chiều nhạt nắng.
Mưa làm hoa rơi trôi ra trước khe nước,
Mây phủ ngoài núi non, cánh chim lẻ bay về. Mai vì hữu tình nên xương gầu guộc,
Đá núi vô ý mà cũng có vết nhăn nheo.
Sứ giả báo rằng đến ranh giới Phong Xuyên, Từ đây đường thuỵ phân chia thành Quảng Đông, Quảng Tây.
Dịch thơ:
Đá rồng buộc chặt sợ tìm đàn, Thuyền nhẹ vừa qua bóng nắng tan. Hoa rụng mưa rơi lòng suối thẳm, Mây giăng chim lẻ giữa non ngàn. Hữu tình nên bởi mai gầy rạc,
Vô ý ấy mà đá cũng nhăn.
Tin báo Phong Xuyên đà hết cõi, Từ đây Lưỡng Quảng rẽ đôi đàng.
65.
13.
梅亭舟泊日黃昏無限清幽任討論綠水青山供遠客白沙翠竹隱孤村棋非占腹難贏局酒是知心謾放言笑我風霜千萬里何如終日掩柴門
Mai đình chu bạc nhật hoàng hôn, Vô hạn thanh u nhậm thảo luân.
Lục thuỵ thanh sơn cung viễn khách, Bạch sa thuý trúc ẩn cô thôn.
Kỳ phi chiêm phúc nan doanh cục, Tửu thị tri tâm mạn phóng ngôn. Tiếu ngã phong sương thiên vạn lý, Hà như chung nhật yểm sài môn.
Dịch nghĩa:
Thuyền đỗ ở đình Mai giữa lúc chiều tối, Cảnh sắc thanh u vô cùng, mặc ai bàn tán. Non nước xanh xanh bày ra cho khách xa xứ ngắm,
1 Phong Xuyên: tức huyện Phong Xuyên, đời Hán thuộc huyện Quảng Tín, đời tấn đặt làm huyện Phong Hưng, đời Tuỳ đổi lại làm huyện Phong Xuyên, đời Thanh thuộc phủ Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông.
Bờ trúc xanh trên bãi cát trắng thấp thoáng một ngôi làng.
Cờ không phải là kẻ rõ bụng, nên khó thắng, Rượu là người hiểu lòng, nên đừng có buông lời.
Tự cười ta ở xa ngàn vạn dặm nơi sương gió, Sao bằng suốt ngày ở trong nhà đóng cửa gỗ. Dịch thơ:
Đình Mai thuyền ghé bóng chiều rơi, Cảnh sắc thanh u, mặc chuyện đời. Nước biếc non thanh mời viễn khách, Trúc xanh cát trắng ẩn làng côi.
Cờ không biết dạ, e khôn thắng, Rượu ấy tri âm, chớ quá lời.
Vạn lý phong sương, ta tự cợt,
Sao bằng đóng cửa suốt ngày ngơi.
66.
14.
義以君臣每自寬身非木石朔風寒時來萬里干封易歲到三冬獻曝難宦海波濤真苦況侯門車馬有爭端高燒紅燭閒看爾心未成灰夜未闌
Nghĩa dĩ quân thần mỗi tự khoan, Thân phi mộc thạch sóc phong hàn. Thời lai vạn lý can phong dị,1
Tuế đáo tam đông hiến bộc nan.2 Hoạn hải ba đào chân khổ huống,
Hầu môn xa mã hữu tranh đoan. Cao thiêu hồng chúc nhàn khan nhĩ, Tâm vị thành hôi dạ vị lan.
Dịch nghĩa:
Vua tôi vì nghĩa đều tự rộng lòng,
Thân mình nào phải gỗ đá, gió bấc thổi thấy lạnh.
Thời vận đến muôn dặm lập công cầu phong dễ,
Năm tháng đến mùa đông khó dâng nắng ấm được.
Nơi bể hoạn nhiều sóng gió thật khổ sở,
Cửa công hầu xe ngựa tranh xếp lên hàng đầu.
1 Can phong: cầu phong hầu.
2 Hiến bộc: dâng nắng ấm, khiêm từ chỉ những cống hiến của
mình đối với mọi người. Sách Liệt Tử nói: Xưa nước Tống có kẻ cày ruộng, thường mặc chiếc áo gai suốt cả mùa đông, đến mùa xuân, thì nằm phơi nắng giữa trời, chẳng cần biết trong thiên hạ có nhà cao cửa rộng chăn êm nệm ấm, rồi bảo với vợ mình rằng: người ta ai cũng phụ nắng ấm mặt trời mà chẳng hay, nếu nàng dâng lời ấy lên vua, ắt sẽ được trọng thưởng.
Ta cứ thắp đuốc lên nhàn xem thế sự,
Lòng chưa thành tro (mất hy vọng), đêm chưa tàn.
Dịch thơ:
Vì nghĩa vua tôi ấy rộng lòng, Thân nào gỗ đá, lạnh hơi phong. Gặp thời muôn dặm, can phong dễ, Năm đến ba đông, khó hiến nồng. Bể hoạn sóng dồn, hay khổ sở, Cửa hầu xe ngựa, biết tranh công. Trên cao thắp nến nhàn xem vậy, Đêm chửa tàn canh, dạ vẫn hồng.
67.
15.
粵嶺茫茫粵水灣輕舟共入桂林關且思昔日由何別莫道今年未暫還心遠家鄉無厭夢眼窮世界不平山封川江上觀音石化作中流自在閒
Việt lĩnh mang mang Việt thuỵ loan, Khinh chu cộng nhập Quế Lâm quan. Thả tư tích nhật do hà biệt,
Mạc đạo kim niên vị tạm hoàn. Tâm viễn gia hương vô yếm mộng, Nhãn cùng thế giới bất bình san.
Phong Xuyên giang thượng Quan Âm thạch, Hoá tác trung lưu tự tại nhàn.
Dịch nghĩa:
Núi Việt mịt mờ, sông Việt uốn quanh, Thuyền nhẹ cùng vào cửa ải Quế Lâm. Nhớ lại ngày trước vì sao từ biệt, Đừng nói năm nay còn chưa trở về.
Xa nhà xa quê nên lòng không chán mộng, Mắt nhìn khắp cõi, không làm bằng được núi non.
Trên sông Phong Xuyên có tượng đá Quan Âm,
Làm dòng nước trôi thong dong tự tại.
Dịch thơ:
Núi Việt mịt mờ, sông Việt quanh, Thuyền xuôi vào cửa Quế Lâm thành. Nhớ sao hôm trước ta chia biệt, Đừng nói năm nay việc chửa thành. Lòng cách quê nhà, đâu chán mộng, Mắt trông khắp cõi, hút non thanh.
Quan Âm tượng đá Phong Xuyên ấy, Tự tại an nhàn, con nước xanh.
68.
16.
村墟落落晚含煙景色撩人最可憐夜靜閒吟三益友風寒獨枕一方天至清若水還流俗不動如山可證禪多少物情俱有趣人生世上豈徒然
Thôn khư lạc lạc vãn hàm yên, Cảnh sắc liêu nhân tối khả liên. Dạ tĩnh nhàn ngâm tam ích hữu,
Phong hàn độc chẩm nhất phương thiên. Chí thanh nhược thuỵ hoàn lưu tục,
Bất động như sơn khả chứng thiền. Đa thiểu vật tình câu hữu thú,
Nhân sinh thế thượng khởi đồ nhiên.
Dịch nghĩa:
Thôn xóm thưa thớt, khói chiều bay lên, Cảnh sắc khiến người ta thấy buồn nhớ.
Đêm vắng nhàn nhã ngâm thơ cùng dăm ba người bạn,
Gió đông lạnh, một mình nằm gối một phương trời.
Trong sạch như dòng nước kia cũng vẫn còn vẩn đục,
Yên lặng như núi non mới có thể chứng thiền. Muôn việc ít nhiều đều có thú riêng,
Cuộc sống trên đời nào phải không không?
Dịch thơ:
Xóm thôn lác đác khói chiều pha, Cảnh sắc trêu ngươi dạ xót xa.
Đêm vắng nhàn ngâm cùng bạn hữu, Gió se riêng gối một phương xa.
Lắng trong như nước, còn vương tục, Bất động dường non, chứng đạo a.
Vạn sự ít nhiều đều có thú,
Kiếp người trần thế há chăng là?
69.
17.
何以離家慰寂寥一樽濁酒對清宵情深似海酬難盡義重如山敢易消詩索隨園尋好句舟臨倒水望迴潮山村催曉雞聲唱遠憶衣冠早上朝
Hà dĩ li gia uý tịch liêu,
Nhất tôn trọc tửu đối thanh tiêu. Tình thâm tự hải thù nan tận, Nghĩa trọng như sơn cảm dị tiêu. Thi sách Tuỳ Viên tầm hảo cú, Chu lâm đảo thuỵ vọng hồi triều. Sơn thôn thôi hiểu kê thanh xướng, Viễn ức y quan tảo thướng triều.
Dịch nghĩa:
Xa nhà lấy gì để an ủi nỗi buồn?
Một chén rượu nhạt uống giữa đêm khuya. Tình sâu như biển khó đền đáp hết,
Nghĩa nặng như núi đâu dễ tiêu.
Thơ học theo Tuỳ Viên thích tìm câu hay, Thuyền đi vào chỗ nước ngược ưa nhìn sóng trào.
Tiếng gà gáy xua tan màn đêm ở xóm núi,
Nơi xa vẫn nhớ lúc mặc áo đội mão vào triều sớm.
Dịch thơ:
Lấy gì an ủi nỗi cô liêu,
Rượu nhạt một bầu giữa tối hiu. Nghĩa nặng dường non đâu dám lãng, Tình sâu tựa biển dễ chi tiêu.
Tuỳ Viên, thơ học tìm câu đẹp,
Nước dốc, thuyền qua ngắm sóng triều (trào). Xóm núi tinh mơ gà gáy vọng,
Xa mơ áo mão sớm lên triều.
70.
18.
不關寒鳥一枝巢我亦凄涼宿遠郊薛荔村前煙罩樹烏龍江上水流泡蕭蕭竹雨溪邊落颯颯松風戶外敲謾道今年鄉域異文章四海舊知交
Bất quan hàn điểu nhất chi sào, Ngã diệc thê lương túc viễn giao. Tiết Lệ thôn tiền yên trạo thụ,
Ô Long giang thượng thuỵ lưu bào. Tiêu tiêu trúc vũ khê biên lạc,
Táp táp tủng phong hộ ngoại xao. Mạn đạo kim niên hương vực dị, Văn chương tứ hải cựu tri giao. Dịch nghĩa:
Chẳng phải vì một tổ chim trong mùa đông, Ta cũng lạnh lùng trú ở cõi đất xa xôi.
Trước thôn Tiết Lệ, khói sương trùm cả cây cối,
Trên sông Ô Long, nước chảy xiết sủi bọt lên. Mưa trúc đìu hiu rơi bên dòng nước,
Gió thông thổi sàn sạt gõ vào ngoài cánh cửa. Chớ nói năm này còn ở nơi tha hương dị vực, Văn chương bốn biển đều là bạn cũ thôi.
Dịch thơ:
Một tổ chim hàn giữa buổi đông, Lạnh lùng ta cũng trú long đong. Đầu thôn Tiết Lệ cây vây khói, Trên bến Ô Long nước sủi dòng. Mưa trúc đìu hiu rơi lạch nước, Gió thông réo rắt gõ ngoài song. Năm nay đừng bảo nơi đất lạ,
Bốn biển văn chương thảy bạn lòng.
71.
19.
獨自間關共爾曹風霜萬里敢云勞曾經滄海洋洋大更歷青山步步高酒散舊愁臨水酌詩題新句對風颾萬金寶劍長天外不愧男兒志氣豪
Độc tự gian quan cộng nhĩ tào, Phong sương vạn lý cảm vân lao.
Tằng kinh thương hải dương dương đạo, Cánh lịch thanh sơn bộ bộ cao.
Tửu tán cựu sầu lâm thuỵ chước, Thi đề tân cú đối phong tao.
Vạn kim bảo kiếm trường thiên ngoại, Bất quý nam nhi chí khí hào.
Dịch nghĩa:
Một mình từ khi xa cách cùng các anh,
Dãi dầu sương gió vạn dặm đường, nào dám nói khó nhọc!
Từng vượt qua biển rộng mênh mông xanh thẳm,
Từng trèo núi non xanh ngát cao cao.
Rượu làm tan nỗi sầu cũ, đem uống ở bến sông,
Thơ có câu hay thì ngâm vang cùng gió lộng. Thanh kiếm báu giá ngàn vàng vẫn còn ở ngoài trời xa,
Làm trai chẳng thẹn, chí khí hào sảng ngút trời.
Dịch thơ:
Từ biệt cùng anh, cánh lẻ đàn, Phong sương vạn dặm dám đâu than! Mênh mông biển cả khua chèo vượt, Chót vót non cao cất bước tràn.
Rượu giãi sầu xưa, vào bến chuốc, Thơ đề câu mới, gió lồng vang.
Ngàn vàng bảo kiếm bên trời thẳm, Chẳng thẹn nam nhi chí ngút ngàn.
72.
20.
那堪歲月易蹉跎屈指今年四十過清水一泓知己淡長風萬里故人和月非有意團圓久雲是無心出沒多此去但期酬厚意滿天霜雪奈如何
Na kham tuế nguyệt dị tha đà, Khuất chỉ kim niên tứ thập qua. Thanh thuỵ nhất hoằng tri kỵ đạm, Trường phong vạn lý cố nhân hoà. Nguyệt phi hữu ý đoàn viên cửu, Vân thị vô tâm xuất một đa.
Thử khứ đãn kỳ thù hậu ý,
Mãn thiên sương tuyết nại như hà.
Dịch nghĩa:
Tháng năm trôi qua nhanh chóng thật khó chịu đựng,
Co tay bấm đốt, năm nay đã quá tuổi bốn mươi.
Một dải sông trong đó là tri kỵ,
Vạn dặm đường dài gió lộng ấy bạn thân. Trăng chẳng có ý lâu tròn,
Mây vô tâm thường ra khỏi núi. Từ nay chỉ còn chờ đáp đền hậu ý,
Đầy trời sương tuyết phủ, biết làm sao?
Dịch thơ:
Xót lòng ngày tháng cứ dần trôi, Bấm đốt năm nay bốn chục rồi. Một dải sông xanh, tri kỷ ít, Dặm dài gió cuốn, cố nhân ôi. Trăng nào hữu ý luôn tròn mãi, Mây ấy vô tâm giã núi đồi.
Cách biệt vẫn mong đền hậu ý, Đầy trời sương tuyết phủ khơi vơi.
73.
21.
長安何處遠天涯莫莫寒煙望轉賒雲裡孤村山寂寞洞中曲徑樹橫斜日殘塘泊西瓜艑
歲暮田開小麥花夜靜江心聞犬吠應知隔岸有人家
Trường An hà xứ viễn thiên nhai, Mạc mạc hàn yên vọng chuyển xa. Vân lý cô thôn sơn tịch mịch, Động trung khúc kính thụ hoành tà. Nhật tàn đường bạc tây qua biển, Tuế mộ điền khai tiểu mạch hoa.
Dạ tĩnh giang tâm văn khuyển phệ, Ưng tri cách ngạn hữu nhân gia.
Dịch nghĩa:
Trường An (chỉ quê hương) ở nơi nào? Xa tận chân trời,
Khói lạnh mịt mờ nhìn chẳng thấy đâu.
Làng xóm hiu quạnh ẩn trong mây mờ, núi non vắng vẻ,
Con đường quanh co trong động, cây cối nghiêng sà.
Ngày đã tắt, con thuyền câu đỗ ở bờ đất, Năm sắp tàn, trên ruộng, lúa còn nở hoa.
Trong đêm vắng vẻ, giữa lòng sông nghe tiếng chó sủa,
Biết chắc bên bờ kia có nhà người ở đó.
Dịch thơ:
Trường An đâu chốn, cách thiên nha? Khói lạnh man man dõi mắt xa.
Thôn xóm mây lồng, non tịch mịch, Đường quanh động lẫn, cỏ la đà. Chiều tà trên bến thuyền câu đỗ, Năm muộn ruộng còn lúa trổ hoa. Đêm vắng lòng sông nghe chó sủa, Cách bờ biết chắc có người ta.
74.
22.
謾將心事且商量風靜雲高夜未央納印本來求印爵榮封還待請封章休教閒步歸鞭快只恐重臨去路長事在天然多曲折到頭名望屬非常
Mạn tương tâm sự thả thương lương, Phong tĩnh vân cao dạ vị ương.
Nạp ấn bản lai cầu ấn tước,
Vinh phong hoàn đãi thỉnh phong chương. Hưu giao nhàn bộ quy tiên khoái,
Chỉ khủng trọng lâm khứ lộ trường. Sự tại thiên nhiên đa khúc chiết,
Đáo đầu danh vọng thuộc phi thường.
Dịch nghĩa:
Chớ đem tâm sự ra so lường,
Gió lặng yên mây bay cao, đêm chưa tàn, Đem ấn nộp vốn là xin ấn tước mới,
Vinh phong vẫn phải chờ xin thỉnh phong. Đừng khiến cho bước đi chậm chạp, hãy dong roi trở về nhanh chóng,
Chỉ sợ đường dài trùng trùng, xa xôi cách trở. Muôn việc đều ở trời, thường nhiều ngoắt ngoéo,
Rốt cuộc lại danh vọng cũng thuộc chuyện không phải mãi thường hằng.
Dịch thơ:
Chớ đem tâm sự để suy lường,
Gió lặng mây cao, đêm vấn vương. Nạp ấn vốn là cầu ấn tước,
Vinh phong vẫn đợi thỉnh phong chương. Đừng xui nhàn bộ nhanh roi ruổi,
Chỉ sợ trùng lâm cách mấy đường. Muôn sự ở trời thường ngoắt ngoéo, Rốt cùng danh vọng cũng vô thường.
75.
23.
才微安敢說將兵航海梯山答聖明月落寒江孤鴈影風迴古寺冷鐘聲豈無不酒相思淚爲有多關受粲情憶別到今纔幾日故鄉聞道樂昇平
Tài vi an cảm thuyết tương binh, Hàng hải thê sơn đáp thánh minh. Nguyệt lạc hàn giang cô nhạn ảnh, Phong hồi cổ tự lãnh chung thanh. Khởi vô bất tửu tương tư lệ,
Vị hữu đa quan thụ xán tình. Ức biệt đáo kim tài kỵ nhật,
Cố hương văn đạo lạc thăng bình.
Dịch nghĩa:
Tài hèn nào dám nói chuyện điều binh khiển tướng,
Chỉ biết vượt biển cả trèo núi non (đi sứ), mong đền đáp ơn vua.
Trăng lặn trên sông lạnh, một bóng nhạn cô đơn,
Gió thổi vòng ngôi chùa cổ, tiếng chuông nghe lạnh lẽo.
Nào phải vì không có rượu mà rơi lệ nhớ thương,
Nhưng vì có nhiều cửa ải, nên chịu nhiều tình chất chứa.
Nhớ lại lúc từ biệt đến nay mới mấy ngày,
Nơi quê hương nghe báo đã vui trong cảnh thái bình.
Dịch thơ:
Tài hèn nào dám luận dùng binh, Vượt biển trèo non báo thánh minh. Sông lạnh trăng chìm, in cánh nhạn, Gió lồng chùa cổ, tiếng chuông đanh. Lệ thương nhớ chảy, nào không rượu, Tình chứa chan dâng, bởi lắm tình.
Cách biệt đến nay chừng mấy buổi, Cố hương vui biết được thanh bình.
76.
24.
滿天樹色半凋零雲裡高城欲摘星買醉人歸閒酒店酬恩船至鬧旗亭盤餐有客供山味日食無魚遠海腥淡薄常甘邦外趣寸誠願達九重聽
Mãn thiên thụ sắc bán điêu linh, Vân lý cao thành dục trích tinh. Mãi tuý nhân quy nhàn tửu điếm, Thù ân thuyền chí náo kỳ đình. Bàn xan hữu khách cung sơn vị, Nhật thực vô ngư viễn hải tinh.
Đạm bạc thường cam bang ngoại thú, Thốn thành nguyện đạt cửu trùng thinh. Dịch nghĩa:
Khắp trời cây cối một nửa đã úa tàn,
Toà thành cao lồng trong mây ngỡ như hái được sao.
Người đi mua rượu trở về, quán rượu hoá nhàn rỗi,
Thuyền đền ơn đến, làm đình cờ náo nhiệt. Trên mâm cơm tiếp khách bày đủ các món sơn vị,
Ngày ngày ăn cơm không có cá, thiếu món ở biển.
Dẫu đạm bạc nhưng ngọt ngào cái thú ở nước ngoài,
Tấc lòng thành xin bày tỏ, nơi chín tầng cao có nghe.
Dịch thơ:
Khắp trời cảnh sắc nửa tiêu hao,
Thuyền đền ơn đến, rộn cờ sao. Mâm cơm có khách, đầy sơn vị, Bữa tạm không ai, thiếu hải hào. Đạm bạc cam lòng nơi đất khách, Tấc lòng xin gửi chín tầng cao.
77.
25.
茫茫海內氣含弘一望山河感慨增肯效甘心吞啞炭直將熱血禦寒冰情關父子愁難禁道重君臣罷不能天外夜闌眠未穩一杯濁酒五更燈
Mang mang hải nội khí hàm hoằng, Nhất vọng sơn hà cảm khái tăng.
Khẳng hiệu cam tâm thôn á thán,1
Trực tương nhiệt huyết ngự hàn băng. Tình quan phụ tử sầu nan cấm,
Đạo trọng quân thần bãi bất năng. Thiên ngoại dạ lan miên vị ổn, Nhất bôi trọc tửu ngũ canh đăng. Dịch nghĩa:
Giữa lòng sông biển mênh mông, khí sương phủ đầy,
Nhìn sông núi bao la, cảm xúc dâng thêm. Ta chịu cam lòng nuốt than nóng,
Vẫn luôn đem nhiệt huyết chống đỡ với giá băng lạnh lùng.
Tình cha con sâu dày, khó nén được mối sầu, Đạo vua tôi sâu nặng khó mà bỏ được.
Nơi trời xa đêm tàn rồi, giấc ngủ vẫn chưa trọn,
Một li rượu nhạt uống với ngọn đèn suốt năm canh.
Dịch thơ:
Mang mang dải dất khí sương cao, Mắt ngóng non sông cảm khái trào. Than đỏ, cam lòng xin nguyện ngậm, Giá băng, máu nóng quyết đem bao. Tình thâm phụ tử sầu khôn nén,
Đạo trọng quân thần bỏ khó sao! Đất khách đêm tàn còn trở giấc, Năm canh rượu nhạt, bóng đèn chao.
78.
26.
Mây phủ thành cao ngỡ hái sao.
Luý tuý người về, trơ quán rượu,
1 Câu này nhắc chuyện Dự Nhượng vì muốn báo thù cho chủ nên nuốt than để làm cho giọng khác đi.