Lâm tân bất thiểu Nguyễn sinh bi.1
Dịch nghĩa:
QUA SÔNG HOÀNG HÀ
Ta đến tiến cống, đúng lúc dòng nước Hoàng Hà trong,
Một chiếc thuyền ngang sông trong cõi sóng gió nguy hiểm.
Dòng nước xiết chảy như tên bắn, mái chèo khua gấp rút,
Đá nhọn lô nhô gió ào ào, khiến thuyền chậm lại.
Mùi vị nửa cuộc đời, cùng đạm bạc như sông Hà (theo dòng sông Hà mà vơi nhạt),
Tình quê hương dăm ba năm này, chỉ có mộng biết mà thôi.
Có thể bạn quan tâm!
- Thương Giang 滄 江 Như Thương Giang 蒼 江: Sông Xanh.
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 37
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 38
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 40
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 41
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 42
Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.
Ngoảnh đầu nhìn bao khách ngựa xe trong trần đời,
Vào bến nước chẳng bớt đi nỗi buồn của chàng Nguyễn.
258.
汲縣郊行
摩娑行葯出郊坰糵秫桑麻妬髩青馬滚風塵跑牴詭2人衝煙樹過通靈3臺欹呂父殘熊夢4碣臥殷師損鳳銘5觸處頓成傷往事心旌搖曵醉官亭
CẤP HUYỆN GIAO HÀNH 6
Ma sa hàng dược xuất giao quynh, Nghiệt thuật tang ma đố mấn thanh. Mã cổn phong trần bào Để Nguỳ, Nhân xung yên thụ quá Thông Linh. Đài y Lữ phụ tàn hùng mộng,7
Kiệt ngoạ Ân sư tổn phụng minh.8
1 Nguyễn sinh: có lẽ chỉ Nguyễn Tịch, người thời Tam Quốc, tự là Tự Tông, là người có tài, nhưng tính tình phóng khoáng, ham rượu, có khi đóng cửa ở nhà viết sách hàng mấy tháng, có khi du sơn ngoạn thuỵ suốt ngày quên cả trở về. Mỗi khi đến đường cùng thì ngồi khóc rất đau đớn, khóc xong thì về. Ông lại thích đạo Lão Trang, làm quan đến chức Bộ binh hiệu uý, nên người đời gọi là Nguyễn bộ binh.
Xúc xứ đốn thành thương vãng sự, Tâm tinh dao duệ tuý quan đình. Dịch nghĩa:
ĐI NGOÀI THÀNH HUYỆN CẤP
Xe đi sát hàng dược thảo, ra ngoài đồng xa, Lúa mạ, gai dâu, cũng thấy ganh cùng mái tóc mai xanh.
Ngựa đi trong gió bụi tung mù, như khiến thú đá chạy theo,
Người xen trong hàng cây khói sương, vượt qua cầu Thông Linh.
Ngôi đài nghiêng nghiêng, ông họ Lữ đã tàn giấc mộng hùng,
Hòn đá bia nằm ngổn ngang, thái sư nhà Ân giảm bớt lời khuyên.
Đâu đâu cũng làm cho ta thương cảm những chuyện cũ,
Nỗi lòng say như lá cờ lay lắt giữa nhà quan.
261.
和安陽縣舉人王鉄崖見贈原韻星馳繡節到名區
萬里山河一遠儒塵躅辱汙賢聖路瑤圖幸歷帝王都葱蘢雲物昭中夏磅礴文風際四隅冀地逢君交半面七言相贈抵瓊瑜
HOẠ AN DƯƠNG HUYỆN CỬ NHÂN VƯƠNG THIẾT NHAI KIẾN TẶNG NGUYÊN VẬN
Tinh trì tú tiết đáo danh khu, Vạn lý sơn hà nhất viễn nho. Trần trục nhục ô hiền thánh lộ, Dao đồ hạnh lịch đế vương đô.
Thông lung vân vật chiêu Trung Hạ, Bàng bạc văn phong tế tứ ngung.
Ký địa phùng quân giao bán diện,9 Thất ngôn tương tặng để quỳnh du.
Dịch nghĩa:
2 Nguyên chú: 縣城前門石獸名 (tên loài thú đá trước cổng
huyện thành).
3 Nguyên chú: 城南橋名 (tên chiếc cầu ở phía nam thành).
4 Nguyên chú: 臺在縣北 (đài ở phía bắc huyện).
5 Nguyên chú: 比干墓在城北路旁碑題殷太師比干墓縣志云孔聖手書筆法遒古 (mộ Tỵ Can nằm ở bên đường phía bắc
thành, trên bia đề “Ân thái sư Tỵ Can mộ” (mộ của Tỵ Can, thái sư nhà Ân), Huyện chí nói rằng, bút tích của đức Khổng Tử, bút pháp mộc mạc mà cứng cáp).
6 Cấp Huyện: tên huyện, được đặt từ thời nhà Hán, thời Minh Thanh thuộc phủ Vệ Huy, tỉnh Hà Nam.
7 Lữ phụ: tức Lữ Vọng, chỉ Khương Tử Nha, từng đi câu bên bờ
sông Vọng, sau giúp Văn Vương dựng nên nhà Chu.
8 Ân sư: chỉ Ân thái sư Tỵ Can.
9 Ký địa: đất Ký, tức Ký Châu, thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Phùng quân bán diện: gặp nhau nửa mặt, ý chỉ gặp nhau vội
vàng. Theo Ứng Phụng truyện trong Hậu Hán thư và lời chú chép rằng: Ứng Phụng người thời Đông Hán, lúc nhỏ nổi tiếng thông minh, từ nhỏ đến lớn, phàm những chuyện ông gặp qua thì đều nhớ hết. Năm ông 20 tuổi, Ứng Phụng đến Bành Thành thăm Viên Hạ, gặp lúc Viên Hạ đi chơi xa, có người thợ làm xe ở trong nhà mở cửa hé nửa mặt nhìn ông. Mấy mươi năm sau, tình cờ gặp người thợ đóng xe ấy trên đường, Ứng Phụng vẫn nhận ra và chào hỏi. Về sau, trở thành điển cố để chỉ việc gặp gỡ vội vàng.
HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI THƠ CỦA CỬ NHÂN HUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG THIẾT NHAI TẶNG TÔI
Cầm cờ tiết đi sứ qua đến vùng đất nổi danh này,
Giữa sông nước muôn dặm, một nhà nho từ cõi xa đến đây.
Vết chân bụi bặm của tôi như làm dơ đường của bậc hiền thánh,
Dấu xe ngọc may mắn trải khắp kinh đô đế vương.
Cảnh vật ở nước Trung Hoa trông thật tươi tốt, Văn phong sáng ngời khắp bốn phương.
Nơi đất Ký Châu (Hà Nam) gặp anh trong vội vàng,
Xin làm bài thơ thất ngôn tặng nhau để báo đáp lòng anh.
262.
題梧下二美人圖1秋天淡蕩靜雲衢誰送佳人入畫圖筆下掃眉同媚柳霜初飄葉共悲梧含情遠憶巫娥夢不語嬌粧楚女軀暗祝投塵如有分昭陽舊路慣相俱
ĐỀ NGÔ HẠ NHỊ MỸ NHÂN ĐỒ
Thu thiên đạm đãng tĩnh vân cù, Thuỳ tống giai nhân nhập hoạ đồ. Bút hạ tảo my đồng mị liễu, Sương sơ phiêu diệp cộng bi ngô. Hàm tình viễn ức Vu nga mộng,2 Bất ngữ kiều trang Sở nữ khu.3 Ám chúc đầu trần như hữu phận,
Chiêu Dương cựu lộ quán tương câu.
Dịch nghĩa:
ĐỀ TRANH HAI NGƯỜI ĐẸP ĐỨNG DƯỚI CÂY NGÔ ĐỒNG
Trời thu thanh trong mát mẻ, trên đường lắng mây,
Ai đưa người đẹp vào trong bức hoạ này? Bút vẽ nét mày như lá liễu,
1 Nguyên chú: 使部所至士夫爭將古畫好扇懇其題咏或以紙軸求其書寫條幅聯對各送酬謝玩好閏筆之禮止要落欵越南國使姓名以誌希遇 (Các sĩ phu ở những nơi đoàn sứ đến, tranh
nhau đem tranh cổ, quạt đẹp ra khẩn nài đề vịnh hoặc đem giấy xin viết điều bức, đối liên, ai cũng cảm tạ, thưởng thức, thù lao nhuận bút, lại yêu cầu ghi vào lạc khoản tên họ của đoàn sứ nước Việt Nam để ghi nhớ cuộc gặp gỡ hiếm có này.)
2 Vu Nga mộng: mộng non Vu, cũng như nói Vu Giáp mộng, chỉ việc ái ân.
3 Câu này ý nói đến Bao Tự, người thiếp yêu của Chu U Vương.
Lá bay trong sương cùng nỗi buồn thu (lá ngô đồng).
Lòng mang nỗi nhớ xa đến giấc mộng núi Vu, Người đẹp trang điểm xong lặng yên không nói tựa cô gái nước Sở.
Thầm chúc kiếp sau như có duyên phận, Chiêu Dương đường cũ ta lại gặp nhau.
263.
勒石題邯鄲呂僊祠黃粱真跡邯鄲秋過石橋邊
想像仙蹤混俗年竈剩黃粱乾富貴樓沈銕笛舊雲煙此身未醒風流夢那日終諧火棗緣欲向真人前借枕盧生今尚抱頭眠4
LẶC THẠCH ĐỀ HÀM ĐAN LỮ TIÊN TỪ HOÀNG LƯƠNG CHÂN TÍCH 5
Hàm Đan thu quá Thạch Kiều biên,6 Tưởng tượng tiên tung hỗn tục niên. Táo thặng hoàng lương can phú quý,7
Lâu trầm thiết địch cựu vân yên. Thử thân vị tỉnh phong lưu mộng, Na nhật chung hài hoả táo duyên.8 Dục hướng chân nhân tiền tá chẩm, Lư sinh kim thượng bão đầu miên.9
4 Nguyên chú: 祠堂三座前堂奉漢鍾離像中堂奉呂洞濱仙跡後堂塑廬生臥睡像 (Từ đường xây làm ba toà, tiền đường thờ
Chung Ly thời Hán, trung đường thờ dấu vết của tiên Lữ Động Tân, hậu đường đắp tượng Lư Sinh nằm ngủ.)
5 Lữ tiên: tức Lữ Động Tân, người Kinh Triệu đời Đường, tên là Tung, đỗ tiến sĩ cập đệ giữa năm Hàm Thông, làm Lưỡng Điều
huyện lệnh. Khi loạn Hoàng Sào nổi lên, ông dời nhà đến ở dưới núi Chung Nam sơn, tu tiên đắc đạo, về sau thế nào không rõ. Trong cuốn Đường thi cổ xuý của Nguyên Di Sơn (Hiếu Vấn), có một bài thơ của Lữ Động Tân, biệt hiệu là Thuần Dương Tử, cũng xưng là Hồi Đạo Nhân, tục truyền ông là một trong tám vị tiên, còn gọi là Lữ Tổ.
6 Hàm Đan: huyện Hàm Đan, thời Xuân thu thuộc Vệ ấp, sau thuộc nước Tấn, thời Chiến Quốc thuộc nước Triệu. Kính hầu
dời đô từ Tấn Dương về đây. Đời Tần đặt làm quận Hàm Đan. Hán Cao đế lập Trương Nhĩ làm Triệu vương, đóng đô ở Hàm Đan. Trương Yến nói rằng: Hàm là tên núi, Đan là hết. Hàm Đan có nghĩa là núi Hàm đến đây là hết, vì thế có tên là Hàm Đan. Nay thuộc phủ Nam Dương cũ, tỉnh Hà Nam.
Thạch Kiều: cầu Thạch Kiều, nằm trên sông Thạch Kiều phía tây huyện Đồng Cổ, Giang Tây, nối thông giữa Hồ Nam với huyện Lưu Dương.
7 Hoàng lương: giấc mộng kê vàng, chỉ công danh hư ảo (xem thêm ở dưới).
8 Hoả táo: loại quả tiên, ăn vào có thể trường thọ.
9 Câu cuối dẫn điển Lữ công chẩm (gối của ông Lữ), xét trong cuốn Dị văn tập, có chuyện rằng, Lữ công (Lữ Động Tân) đi
ngang qua Hàm Đan, trong phủ có chàng họ Lư, tự than nghèo khó danh vọng không thành, xin ngủ nghỉ lại, người chủ nhà bấy giờ đang nấu cháo kê vàng, Lữ công bèn thò vào trong túi lấy chiếc gối đưa cho chàng, nói: gối chiếc gối này có thể được vinh sủng như ý, Lư liền gối gối ấy mà ngủ, trong mơ thấy mình đi vào trong gối đến được nhà mình, chẳng mấy chốc thi
Dịch nghĩa:
KHẮC VÀO ĐÁ ĐỀ CHÂN TÍCH KÊ VÀNG ĐỀN LỮ TIÊN Ở HÀM ĐAN
Mùa thu qua Hàm Đan, đến bên Thạch Kiều, Ngỡ là bao năm dấu tiên đã lẫn với vết tục. Trên bếp nồi kê vàng đã cạn giấc mơ phú quý, Tiếng sáo sắt nơi lầu gác chìm trong mây khói xưa.
Kiếp này chưa tỉnh giấc mộng phong lưu, Ngày ấy cái duyên ăn quả tiên rốt cuộc vẫn không xong.
Muốn mượn chân nhân chiếc gối để nằm, Nhưng chàng Lư vẫn còn ôm đầu ngủ say. Dịch thơ:
Thu đến Hàm Đan cạnh Thạch Kiều, Tiên phàm vết lẫn, tháng năm rêu.
Kê vàng phú quý nay đà cạn? Tiếng địch lầu mây hút bóng chiều. Giấc mộng phong lưu ta chửa tỉnh, Cái duyên hoả táo vẫn còn khêu.
Chân nhân gối cũ, toan nhờ mượn, Say mộng chàng Lư vẫn ngáy đều.
264.
廿年烽火歷艱屯我亦廬生夢後身龍虎未成燒汞候宦婚猶是煑粱身青勞秋柳堤乘眼紅望京華路遶塵爲向清壇叅正果蓬萊仙境有無因
(KỲ NHỊ)
Chấp niên phong hoả lịch gian truân, Ngã diệc Lư sinh mộng hậu thân.
Long hổ vị thành thiêu hống hậu,1 Hoạn hôn do thị chử lương thân.
Thanh lao thu liễu đê thừa nhãn, Hồng vọng kinh hoa lộ nhiễu trần. Vị hướng thanh đàn tham chính quả,2 Bồng Lai tiên cảnh hữu vô nhân.
Dịch nghĩa:
BÀI 2
Hai chục năm trong khói lửa chiến tranh, đã trải nhiều gian truân,
Ta cũng như chàng họ Lư kia sau giấc mộng. Nghiệp công danh chưa thành, lòng như lửa đốt,
Làm quan lấy vợ vẫn như thế, cuộc đời qua nhanh như nấu nồi kê vàng.
Đường đê rợp liễu thu xanh ngắt một màu, xanh cả ánh mắt,
Đường đến kinh đô bụi hồng mờ mịt, hồng cả ánh nhìn.
Hướng đến thanh đàn nhập vào chánh quả, Cảnh Bồng Lai, vì nhân duyên mà có, cũng vì nhân duyên mà hoá không.
267.
使停隆興寺漫題3正定隆興殿閣重雲輧釋馬訪禪宗有爲旣著千年燭無相何來七丈容4雲擁書樓封錦帕螭朝御碣拱霜松5行人欲叩因緣果爭奈比邱夢正慵
SỨ ĐÌNH LONG HƯNG TỰ MẠN ĐỀ
Chính Định Long Hưng điện các trùng, Vân bình thích mã phỏng thiền tông.
Hữu vi ký trứ thiên niên chúc, Vô tướng hà lai thất trượng dung.
Vân ủng thư lâu phong cẩm phách, Ly triều ngự kiệt củng sương tùng. Hành nhân dục khấu nhân duyên quả, Tranh nại tỳ kheo mộng chính dung. Dịch nghĩa:
ĐOÀN SỨ DỪNG Ở CHÙA HƯNG LONG, ĐỀ THƠ
Chùa Long Hưng ở Chính Định, điện gác từng tầng cao cao,
Vén rèm xe, xuống ngựa, lên thăm cõi thiền. “Hữu vi” (có làm), nên vẫn còn ngọn đèn sáng suốt ngàn năm,
đỗ, làm quan, thọ hơn tám chục tuổi, rồi bệnh chết, giật mình tỉnh dậy, quay nhìn thấy Lữ công ở bên, nồi kê vàng vẫn chưa chín. Ý nói cuộc đời như giấc mộng.
1 Long hổ: rồng cọp. Sách Sử ký chép: Phạm Tăng nói với Hạng Vũ: Bái công lúc ở Sơn Đông tham tiền của, thích đàn bà con
gái đẹp, nay đã vào cửa quan, tiền của không lấy, mỷ nữ không màng, đó là bởi không để chí mình vào lợi nhỏ, tôi đã sai người xem khí của người này, họ đều cho là rồng cọp thành mây ngũ sắc, đó là khí của thiên tử vậy. Đây có ý chỉ công danh.
2 Thanh đàn: đàn thanh tịnh, chỗ của những người tiên ở, cũng giống như tiên đàn.
3 Nguyên chú: 寺在正定府城中 (Chùa nằm trong thành phủ
Chính Định).
4 Nguyên chú: 寺奉觀音大士金身高七丈三尺佛前燈鑊號千年燭貯油百斤常點不絕 (Chùa thờ kim thân đức Quan Âm đại
sĩ, cao bảy trượng ba thước, trước tượng Phật có tháp đèn gọi là đèn ngàn năm, chứa trăm cân dầu, thường thắp sáng không dứt.)
5 Nguyên chú: 寺所殿閣樓觀前後絡繹正殿奉大士金身前有大清聖祖仁皇帝御製碑文左建書樓垣外右後行宮是南巡之所 (Lầu gác điện đền trong chùa trước sau đều thông với nhau,
chánh điện thờ kim thân đức Quan Âm đại sĩ, phía trước có văn bia do Thánh tổ Nhân Hoàng đế nước Đại Thanh ngự đề, bên trái dựng lầu sách, tường thấp bao bọc, phía sau bên phải là hành cung, nơi nghỉ khi nam tuần.)
“Vô tướng” (không có hình tướng), mà thân vàng cao bảy trượng đã có từ bao giờ?
Mây ôm ấp lầu sách, giăng trên chiếc khăn bịt đầu bằng gấm,
Con giao ly chầu về tấm bia đá do chính tay vua viết, cây thông lẩn trong sương.
Người hành hương muốn hỏi thăm quả nhân duyên,
Chẳng nể việc vị tỳ kheo kia đang lười trong mộng.
269.
直隷道中書事 京畿千里宅天王元首諸邦控御強右向太行驅巿馬
左歸滄海泛樓航1琉璃2高架橋如玉豆腐3深藏店尚霜正熱平田秋萬頃風吹禾黍襲人香
TRỰC LỆ ĐẠO TRUNG THƯ SỰ
Kinh kỳ thiên lý trạch thiên vương, Nguyên thủ chư bang khống ngự cường. Hữu hướng Thái Hàng khu thị mã,
Tả quy thương hải phiếm lâu hàng. Lưu Ly cao giá kiều như ngọc,
Đậu Hủ thâm tàng điếm thượng sương. Chính nhiệt bình điền thu vạn khoảnh, Phong xuy hoà thử tập nhân hương.
Dịch nghĩa:
TRÊN ĐƯỜNG TRỰC LỆ GHI VIỆC
Chốn kinh kỳ ngàn dặm là nơi vua chọn làm nhà,
Là nơi đầu mối của các nước chống cường địch.
Bên phải đường ngựa dong ruổi thẳng đến Thái Hàng,
Bên trái đường thuỵ thông suốt, kề sát biển xanh.
Chiếc cầu Lưu Ly bắt cao như cầu ngọc,
Hàng bán Đậu Hủ khuất sâu, quán còn phủ sương.
Đồng ruộng vụ lúa mùa đang chín, ngập tràn vạn khoảnh.
1 Nguyên chú: 廣輿記曰直隷左抱滄海有右擁太行 (Quảng dư ký chép rằng mé trái Trực Lệ ấp biển xanh, bên phải ôm núi Thái Hành).
2 Nguyên chú: 橋名在涿州城北長一里許廣二丈皆白石砌
(Lưu Ly là tên cầu ở phía bắc thành Trác Châu, dài một dặm, rộng khoảng hai trượng, đều lát bằng đá.)
3 Nguyên chú: 店 名 大 庯 巿 (Đậu Hủ, tên cửa hiệu ở chợ Đại
Phu).
Gió đưa mùi hương lúa thơm vào mũi người đi đường.
270.
陟廣仁嶺4雄瞻古北口人上石巑岏赤日胸前捧青雲足下蟠瀑翻驚鹿飲風震怯猿攀皇路開通後寬平絕險艱
TRẮC QUẢNG NHÂN LĨNH 5
Hùng chiêm Cổ Bắc khẩu, Nhân thướng thạch tán hoàn. Xích nhật hung tiền bổng, Thanh vân túc hạ bàn.
Bộc phiên kinh lộc ẩm, Phong chấn khiếp viên phan. Hoàng lộ khai thông hậu, Khoan bình tuyệt hiểm gian. Dịch nghĩa:
LÊN NÚI QUẢNG NHÂN
Trông cửa Cổ Bắc hùng tráng, Người trèo lên vách đá cheo leo. Mặt trời đỏ như ở trước ngực, Mây xanh dường quấn dưới chân.
Thác đổ làm kinh lũ hươu đang uống nước, Gió thốc lên làm lũ vượn khiếp sợ chuyền cành.
Sau khi con đường được vua khai thông,
Làm cho nhưng gian khổ nguy hiểm trở nên dễ dàng.
271.
古北口紀見6
重峰叠壑霧雲班萬里長城啓北關打獵人從鷹隼去穿裘客載駱駝還熱河日麗羅仙蹕7
4 Nguyên chú: 嶺在承德府熱河之南康熙初年截嶺開路盤旋上下車馬可行 (Núi này nằm ở phủ Thừa Đức, phía nam Nhiệt
Hà, năm đầu thời Khang Hy, phá núi mở đường, đường quanh co lên xuống, ngựa xe có thể đi được.)
5 Quảng Nhân lĩnh: núi Quảng Nhân, nằm ở phía tây huyện
Thừa Đức, Nhiệt Hà chừng 11 dặm, tức là núi Mặc Đấu ngày xưa, đời nhà Thanh đặt tên là Quảng Nhân.
6 Nguyên chú: 古北口乃萬里長城關名 (Cổ Bắc khẩu là tên
cửa ải Vạn Lý trường thành.)
7 Nguyên chú: 熱河行宮大清歷朝避暑北巡之所日麗午門名東北至滿州長白祖山行程不遠 (Nhiệt Hà, hành cung Nhiệt
Hà, là nơi các triều vua Đại Thanh đi bắc tuần, tránh nắng nghỉ
石匣弓閒掛雪山1驛使正酣酥酪酒黃沙斷磧角聲寒
CỔ BẮC KHẨU KỶ KIẾN
Trùng phong điệp hác vụ vân ban, Vạn lý trường thành khải bắc quan. Đả liệp nhân tòng ưng chuẩn khứ, Xuyên cừu khách tải lạc đà hoàn. Nhiệt Hà nhật lệ la tiên tất,
Thạch hạp cung nhàn quải tuyết sơn. Dịch sứ chính hàm tô lạc tửu, Hoàng sa đoạn thích giốc thanh hàn. Dịch nghĩa:
GHI ĐIỀU TRÔNG THẤY Ở CỬA CỔ BẮC
Núi non trùng điệp, suối khe đầy sương mù, Trường thành dài vạn dặm mở ra cửa bắc. Chim cắt theo người thợ săn bay đi,
Lạc đà chở người khách mặc áo cừu trở về. Ánh nắng đẹp (Nhật lệ) ở Nhiệt Hà bày ra con đường vua đi,
Chiếc cung ở cửa Thạch Hạp treo hờ ở núi Tuyết Sơn.
Người đi sứ đang say trong chén rượu sữa, Bãi cát vàng dường như đứt quãng trong tiếng tù và lạnh lẽo vang.
273.
贈聖裔七十二代孫拔貢試任新鄭縣知縣繼炳
孳孳向日効葵衷聖裔恭逢返路中枝葉榮霑楓殿露雲仍高接杏壇風牛刀暫試鷄初割花縣遙看樹已樷致澤何難家有訓皐夔事業佇元功
TẶNG THÁNH DUỆ THẤT THẬP NHỊ ĐẠI TÔN BẠT CỐNG THÍ NHẬM TÂN TRỊNH HUYỆN TRI HUYỆN KẾ BÍNH
Tư tư hướng nhật hiệu quỳ trung, Thánh duệ cung phùng phản lộ trung. Chi diệp vinh triêm phong điện lộ,2 Vân nhưng cao tiếp hạnh đàn phong.3
mát. Nhật Lệ là tên ngọ môn, đông bắc đến Mãn Châu, núi Trường Bạch Tổ, đường đi không xa lắm).
1 Nguyên chú: 石匣城關口內遊撃駐札之所 (Thạch Hạp, trong
cửa ải thành, là nơi dừng chân của các quan chuyển thư trát đến).
2 Phong điện: sân điện trồng cây phong, chỉ cung vua. Thời xưa cung điện nhà Hán trồng nhiều cây phong ở sân, vì thế gọi là
thềm phong, sân phong.
3 Hạnh đàn: đàn hạnh, hay vườn trồng nhiều cây hạnh. Ngày xưa Khổng Tử dạy học trò dưới vườn hạnh, nên về sau, vườn
hạnh dùng để chỉ trường học, hay những người xuất thân từ
Ngưu đao tạm thí kê sơ cát,
Hoa huyện dao khan thụ dĩ tùng. Trí trạch hà nan gia hữu huấn,4
Cao, Quỳ sự nghiệp trữ nguyên công.5
Dịch nghĩa:
TẶNG CHÁU ĐỜI THỨ BẢY MƯƠI HAI CỦA THÁNH DUỆ ĐƯỢC ĐỀ BẠT KẾ NHẬM CHỨC TRI HUYỆN HUYỆN TÂN TRỊNH
Bao đời như hoa quỳ quay về ánh nắng để tỏ lòng thành,
Dòng dõi thánh hiền nay được gặp trong lúc ta trên đường trở về.
Lá cành tươi tốt đượm ơn sương móc nơi cung khuyết,
Mây vẫn trên cao đón gió ở đàn hạnh. Dao mổ trâu tạm dùng để cắt gà thử,
Khắp huyện hoa từ xa đã nghe cây cối tốt tươi. Trên phò vua, dưới giúp dân có khó gì với người đã có sẵn nếp nhà dạy dỗ,
Sự nghiệp của ông Cao, ông Quỳ thật đáng công đầu.
278.
使行自述 嶺海窮人跡乘車復駕舟
手逢巡撫展6鬚奉帝王留1
Nho gia. Cũng có người cho rằng, vườn hạnh là khu vườn ở thành Trường An, đời Đường, nhà vua đón tiếp các tân tiến sĩ ở đây.
4 Trí trạch: tức nói gọn cụm từ “trí quân trạch dân” (trên phò vua, dưới giúp dân).
5 Cao, Quỳ: tức ông Cao Dao, quan coi ngục và ông Quỳ là quan giữ lễ nhạc thời vua Ngu Thuấn.
6 Nguyên chú: 使到湖南省贄見巡撫高紀,坐談之餘,高執余手掌,相視花紋,因問使部係農耐人,其農耐之名,古無聞見,今觀使部語默舉動,衣冠人物,有中國之風,與從前安南來使大有天淵之判得無,農耐別是一古何國,其文學風俗封域土産若何?余一一清答,待茶而退。蓋嘉定城俗名仝狔,廣東土音呼爲農耐。致廣東督撫閫臣詢知緣由,別行摺奏以我國爲農耐人,非昔年安南交趾人一般,故使部所至,京省府縣並以此核查官吏士民亦以此厚加看待,而農耐之名已書於史館矣。(Sứ đoàn đến tỉnh Hồ Nam,
gặp mặt quan Tuần phủ Cao Kỵ, sau khi nói chuyện xong, Cao cầm lòng tay tôi, xem tướng chỉ tay, nhân hỏi sứ bộ là người Nông Nại, cái tên Nông Nại ấy, xưa nay chưa từng nghe thấy, nay xem cách đi đứng nói năng của đoàn sứ bộ, thật là những người có văn hoá, giống với phong tục của Trung Quốc, so với sứ giả trước đây từ An Nam đến thật khác xa, ngỡ rằng Nông Nại là một nước xưa nào khác, văn học, phong tục, cương vực, thổ sản thế nào? Tôi bèn nói rành rọt hết, được đãi trà rồi lui. Thành Gia Định, thường gọi là Đồng Nai, thổ âm Quảng Đông gọi là Nông Nại. Đến khi quan Khổn thần là Tuần phủ Quảng Đông hỏi thăm biết được duyên cớ, khi lên đường, ông viết tấu là đoàn sứ nước ta là người Nông Nại, không phải là người Giao Chỉ An Nam như trước đây, cho nên những nơi sứ bộ đến, từ kinh, tỉnh, phủ, huyện đến sĩ dân, quan lại kiểm tra đều vì điều ấy mà tiếp đãi rất chu đáo, mà cái tên Nông Nại cũng được ghi vào sử quán vậy).
南北隨聲應2江山有句酬歸來妻子問幸免笑虛遊
SỨ HÀNH TỰ THUẬT
Lĩnh hải cùng nhân tích, Thừa xa phục giá chu. Thủ phùng tuần phủ triển, Tu phụng đế vương lưu. Nam bắc tùy thanh ứng, Giang sơn hữu cú thù.
Quy lai thê tử vấn, Hạnh miễn tiếu hư du. Dịch nghĩa:
TỰ THUẬT HÀNH TRÌNH ĐI SỨ
Vùng biển núi Lĩnh chẳng thấy bóng người, Đi xe rồi lại đi thuyền.
Tay này, gặp tuần phủ thì dang ra,
Râu này, vì phụng mệnh vua mà để dài.
Ở Nam hay ở Bắc đều tùy tiếng nói mà đối đáp,
Cảnh đẹp non sông, thì dùng thơ thù họa. Khi trở về nhà, vợ con có hỏi,
Rằng may mắn không uổng một chuyến vui chơi.
279.
題華程圖3節捧臣心壯圖開地勢雄江山歸帝籍草木被皇風南北舟車至華夷道路通筆端描不盡浩蕩奠敷功
ĐỀ HOA TRÌNH ĐỒ
Tiết phủng thần tâm tráng, Đồ khai địa thế hùng.
Giang sơn quy đế tịch, Thảo mộc bị hoàng phong.
1Nguyên chú: 余欽命時奉上諭留鬚以重國體 (Khi tôi nhận mệnh đi sứ, phụng chỉ dụ của hoàng thượng để râu để gìn quốc thể).
2 Nguyên chú: 使到廣西通事陳貴病死,余初以廣東語應酬,後漸熟北音官話,凡當官問答,余自應之,一路如此
(Sứ đoàn đến tỉnh Quảng Tây, người giữ việc thông dịch là Trần Quý bị bệnh chết, tôi lúc đầu dùng tiếng Quảng Đông để đối đáp, sau dần dà quen cả tiếng quan thoại Bắc Kinh, phàm khi làm việc đối đáp, tôi đều tự ứng đáp, suốt chặng đường đều như thế cả.)
3 Nguyên chú: 使行別有按認在行一路山川城郭塘汛路程畫成圖本 (chặng đường đi sứ cứ xét vào đây thì rõ, suốt chặng
đường đi, núi sông thành quách ao hồ, bến nước, lộ trình, đều vẽ thành bức vẽ).
Nam bắc chu xa chí, Hoa Di đạo lộ thông. Bút đoan miêu bất tận, Hạo đãng điện phu công. Dịch nghĩa:
ĐỀ BỨC VẼ HÀNH TRÌNH ĐI SỨ TRUNG QUỐC
Cầm cờ tiết đi sứ, lòng bầy tôi phấn chấn, Bức vẽ mở ra địa thế hùng vĩ.
Núi sông từ nay đã là của quê vua,
Cỏ cây được thấm nhuần gió mát của vua. Xe thuyền nam bắc qua lại,
Người Hoa người Di lại qua thông suốt. Ngọn bút không thể nào vẽ hết được, Công mở rộng cõi bờ mênh mông.
艮齋可以集
欽差吏部尚書行嘉定城協總鎮安全侯鄭懷德甫輯
CẤN TRAI KHẢ DĨ TẬP
Khâm sai Lại bộ thượng thư hành Gia Định thành Hiệp Tổng trấn An Toàn hầu
Trịnh Hoài Đức phủ tập
甲子年
此後公忙不遑吟咏間有稱頌送贈哀輓大題與夫教正門下雜作隨筆必錄以次附之無事於逐年分紀
GIÁP TÝ NIÊN (1804)
Thử hậu công mang bất hoàng ngâm vịnh gian hữu xưng tụng tống tặng ai vãn đại đề dữ phù giáo chính môn hạ tạp tác tuỳ bút tất lục dĩ thứ phụ chi vô sự ư trục niên phân kỵ.
(Từ năm Giáp Tý về sau, trong lúc bận rộn việc công vẫn không bỏ ngâm vịnh, phàm những bài thơ lấy đề tài từ xưng tụng, tặng tiễn, ai vãn cùng với những sáng tác tạp nhạp tuỳ bút nơi cửa nhà khi nhàn rỗi vô sự ắt đều ghi lại chép phụ vào sau theo từng năm)
280.
澆花
祇恐驕陽熱氣烘汲將春水灌花叢輕篩為護香嬌力頻灑思陪造化功浴罷秦娥流粉黛盥餘趙女退脂紅明朝閑檢園庭下桂子蘭孫占曉風
KIÊU HOA
Chỉ khủng kiệu dương nhiệt khí hồng, Cấp tương xuân thuỵ hoán hoa tùng. Khinh sư vi hộ hương kiều lực,
Tần sái tư bồi tạo hoá công. Dục bãi tần nga lưu phấn đại,
Quán dư Triệu nữ thoái chi hồng. Minh triêu nhàn kiểm viên đình hạ, Quế tử hương tôn chiếm hiểu phong. Dịch nghĩa:
TƯỚI HOA
Chỉ sợ hơi nóng của chiếc xe chở ánh mặt trời quá nóng,
Nên dẫn nước xuân về tưới khóm hoa. Tưới nhẹ vì muốn gìn làn hương mỏng,
Tưới nhiều lần để nhớ đến công của tạo hoá. Tắm xong, hoa tựa Hằng nga trôi vẻ phấn,
Gội sạch rồi, hoa dường Triệu Phi Yến bớt vẻ hồng.
Sáng mai kiểm lại dưới sân vườn,
Con cháu của quế, lan sẽ chiếm làn gió sớm.
281.
酷愛奇葩綴景風勤加調護灌澆功一缻甘水爭春雨萬顆瓊漿撒粉叢白手新恩均地有紅顏舊染半塵空靜參輔相相宜處活潑生機樹樹同
(KỲ NHỊ)
Khốc ái kỳ ba chuyết cảnh phong, Cần gia điều hộ hoán kiêu công. Nhất bình cam thuỵ tranh xuân vũ,
Vạn khoảnh quỳnh tương tát phấn tùng. Bạch thủ tân ân quân địa hữu,
Hồng nhan cựu nhiễm bán trần không. Tĩnh tham phụ tướng tương nghi xứ, Hoạt bát sinh cơ thụ thụ đồng.
Dịch nghĩa:
BÀI 2
Yêu thay hoa lạ tô điểm cho cảnh sắc,
Nên cố chăm sóc ra công tưới nước cho hoa. Một bình nước ngọt tranh với mưa xuân, Vạn khoảnh đượm nước quỳnh, mang phấn đi. Kẻ trắng tay nhận ơn mới, ở đâu cũng có,
Người hồng nhan nhiễm vết cũ, nửa trần này không.
Lặng xem bậc tướng phò giúp cũng phải được chỗ thích hợp,
Sức sống tràn trề, cây nào cây nấy cũng giống nhau.
282.
野牡丹
托根何必在沈香綠野丰情擬洛陽里巷古來饒國色塵埃今自有花王酒醒雨洗東珠琖蜂去春留赤蠟房富貴不從衰老損珊瑚四尺尚成行
DÃ MẪU ĐƠN
Thác căn hà tất tại trầm hương, Lục dã phong tình nghĩ Lạc Dương. Lý hạng cổ lai nhiêu quốc sắc,
Trần ai kim tự hữu hoa vương. Tửu tinh vũ tẫy đông châu trản, Phong khứ xuân lưu xích lạp phòng. Phú quý bất tòng suy lão tổn,
San hô tứ xích thượng thành hàng.
Dịch nghĩa:
HOA MẪU ĐƠN Ở ĐỒNG
Gửi thân đâu cần phải giấu mùi hương,
Nơi đồng xanh, bởi đa tình nên cứ nhớ Lạc Dương.
Làng quê ngõ xóm xưa nay thường lượng thứ cho người quốc sắc,
Cõi trần từ nay đã có vua của loài hoa.
Tỉnh cơn say, mưa gội rửa, hoa như chén ngọc, Ong bay hết, xuân còn giữ trong nhuỳ đỏ.
Vẻ phú quý chẳng giảm bớt theo tuổi già, Bốn thước san hô vẫn thành hàng.
283.
芥花
高人采地在煙霞芥圃葱蘢野興賖蒼玉霜開交挹瓣黃金日耀叠層葩遺香善教思諸葛坐佛誠心憶李家為語村娃休早摘護持成子續年華
GIỚI HOA
Cao nhân thái địa tại yên hà, Giới phố thông lung dã hứng xa.
Thương ngọc suông khai giao ấp biện, Hoàng kim nhật diệu điệp tằng ba.
Di hương thiện giáp tư Gia Cát, Toạ phật thành tâm ức Lý gia. Vị ngữ thôn oa hưu tảo trích, Hộ trì thành tử tục niên hoa.
Dịch nghĩa:
HOA CẢI
Đất tốt bậc cao nhân ở chốn khói mây, Vườn cải sum suê, hứng tràn trề.
Sương móc như ngọc, mở cánh ra hút lấy, Nắng vàng rực rỡ, nở hoa nhiều tầng.
Làn hương còn sót lại nhờ thiện giáo, nhớ Gia Cát,
Bên đất phật thành tâm, nhớ nhà họ Lý. Nhắn gửi mấy cô bé quê chớ hái hoa vội, Giữ gìn hạt mầm để nối tiếp tuổi hoa.
292.
南梅
羅浮飛跡是何年饒托根株大越天翠葉竝同花競秀香姿不為雪增姸橫斜古寺承甘露點綴春窗裊瑞煙莫謂南朝無宋相清新還擬續瑤篇
NAM MAI
La phù phi tích thị hà niên,
Nhiêu thác căn chu Đại Việt thiên. Thuỳ diệp tịnh đồng hoa cạnh tú, Hương tư bất vị tuyết tăng nghiên. Hoành tà cổ tự thừa cam lộ,
Điểm xuyết xuân song niểu thuỳ yên. Mạc vị Nam triều vô Tống tướng, Thanh tân hoàn nghĩ tục dao thiên.
Dịch nghĩa:
NAM MAI (MAI PHƯƠNG NAM)
Dấu tiên nơi La Phù từ năm nào, Đến đây gửi thân nơi trời Đại Việt. Lá xanh cùng phô vẻ đẹp với hoa,
Mùi hương chẳng cần tuyết để làm thêm nồng. Cành xoà nghiêng trước ngôi chùa cổ, nên được gội nước cam lộ,
Điểm xuyết cho cửa xuân, hưởng làn khói trầm thơm tho.
Đừng nói là Nam triều không có tướng Tống, Vẻ thanh tân còn nối tiếp bài ngọc dao.
298.
哭戶部尚書敏政侯黎光定嘉定親朋已半萎
黎卿今又尾星騎褐裘已副臨棺禮泣雨還多舉衽悲公署風流懷士行
御屏圖畫憶王維1何堪賜弔煩中使無復明時疏十思
KHỐC HỘ BỘ THƯỢNG THƯ MẪN CHÍNH HẦU LÊ QUANG ĐỊNH
Gia Định thân bằng dĩ bán nuy, Lê khanh kim hựu Vĩ tinh ky (kỳ). Hạt cầu dĩ phó lâm quan lễ,
Khấp vũ hoàn đa cử nhẫm bi. Công thự phong lưu hoài sĩ hạnh, Ngự bình đồ hoạ ức Vương Duy. Hà kham tứ điếu phiền trung sứ, Vô phục minh thời sớ thập ti (tư). Dịch nghĩa:
KHÓC THƯỢNG THƯ HỘ BỘ TƯỚC MẪN CHÍNH HẦU LÊ QUANG ĐỊNH
Bạn bè ở Gia Định một nửa đã mất, Anh họ Lê nay lại cỡi sao Vĩ ra đi.
Chiếc áo cừu lớn đã đắp phụ vào cỗ áo quan, Mưa khóc còn nhiều hơn cả nỗi buồn khi nâng áo chiếu.
Vẻ phong lưu của anh nơi công đường khiến tôi nhớ đến tiết tháo của bậc đại phu,
Trông bức vẽ ngự bình ngày xưa của anh, khiến tôi nhớ đến Vương Duy.
Anh được vua sai trung sứ đến viếng, tôi biết làm sao,
Từ nay không còn thấy anh dâng sớ về mười điều suy nghĩ trong thời nay nữa.
299.
聞嘉定城協總鎮靜遠侯吳汝山工部尚書訃音哀作
指望安邊展宿懷錦堂驚報汝山頽紆青有力生能博不白之言死可哀半世雄心空復爾二年大體謂何哉憐卿曠達翻成癖埋怨莊生入夜臺
VĂN GIA ĐỊNH THÀNH HIỆP TỔNG TRẤN TĨNH VIỄN HẦU NGÔ NHỮ SƠN CÔNG BỘ THƯỢNG THƯ PHÓ ÂM AI TÁC
Chỉ vọng An Biên triển túc hoài, Cẩm đường kinh báo Nhữ Sơn đồi. Hu thanh hữu lực sinh năng bác, Bất bạch chi ngôn tử khả ai.
1Nguyên chú: 黎前有奉畫屏風步障上進 (Ông Lê trước đây có phụng mệnh vẽ tấm bình phong bộ chướng, dâng lên cho vua).