Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 38


Quế Lâm kim hạ phát hoa kiêu. Hậu tiên vũ biểu quỳ tâm đốc,2 Nam bắc nhất gia phân tẩm tiêu. Tòng thử Yên Kinh long mật vật, Ngự lô hương nhiễu sứ bào nhiêu. Dịch nghĩa:

RỜI THUYỀN Ở QUẾ LÂM

Trăng nằm trên bờ cao, gió thổi mạnh,

Núi non như tấm bình phong mở, nước sông trào.

Mùa đông năm trước sứ bộ dừng ở Quảng Đông,

Mùa hè năm nay quẫy mái chèo ở Quế Lâm. Màn mưa ràn rụa trước sau, nhưng vẫn dốc lòng như hoa quỳ,

Nam bắc từ nay đã thông suốt một nhà, hơi chướng độc đã sạch.

Từ đây đến Yên Kinh người ở đông đúc,

Mùi thơm từ lò hương vua ban đượm cả áo bào của sứ thần.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Dịch thơ:

Trăng nấp bờ cao, gió thổi trào, Núi ngàn mở cửa, nước triều xao. Hè nay, Rừng Quế giương cờ sứ,

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 38

Đông trước, Quận Voi nghỉ chốn nào. Mưa đổ bao la, lòng vẫn dốc,

Một nhà nam bắc, chướng tan mau. Yên Kinh đường đến thêm sầm uất, Hương toả ngự lô đượm áo bào.


195.

靈川縣寄興

象鼻相畱我二年別君今夏過靈川縱橫路轉千條迥忠信舟隨百丈牽素履品爭蓮社貴撝謙人次竹林賢3江山莫比蘓張笑爲國何妨暮敂燕

LINH XUYÊN HUYỆN KÝ HỨNG

Tượng tỳ tương lưu ngã nhị niên,4 Biệt quân kim hạ quá Linh Xuyên.5



1 Tượng Quốc: cũng như nói Tượng Quận, nay thuộc vùng đất Quảng Đông, Trung Quốc.

2 Quỳ tâm: lòng hoa quỳ, hoa quỳ thường hướng về ánh mặt trời, vì vậy để ví với lòng người trung trinh.

3 Nguyên chú: 使合二部正副六位 (hai đoàn sứ bộ hợp lại, gồm

6 vị tất cả).

4 Tượng tỳ: tức tượng tỳ bôi (ly hình như cái vòi voi), còn gọi là hà diệp bôi (ly lá sen), thường thì đâm vào giữa lá sen, rồi uống

cái chất trong cọng của nó. Ở đây chắc tác giả dùng như đồ dùng để uống rượu.

5 Linh Xuyên: huyện Linh Xuyên thuộc Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Tung hoành lộ chuyển thiên điều quýnh, Trung tín chu tuỳ bách trượng khiên.

Tố lý phẩm tranh Liên xã quý,6

Huy khiêm nhân thứ Trúc lâm hiền.7 Giang sơn mạc tỵ Tô Trương tiếu,8 Vị quốc hà phương mộ khấu Yên.

Dịch nghĩa:

HUYỆN LINH XUYÊN VIẾT GỞI HỨNG

Ta cùng nhau uống lá sen chia tay, đã trải hai năm,

Từ biệt anh, mùa hè này lại qua Linh Xuyên. Đường ngang lối dọc quanh co, ngàn lối xa xôi,

Thuyền trung tín theo dòng sông trăm trượng dẫn đi.

Tự tu dưỡng phẩm hạnh, như những vị tôn quý ở ao Sen,

Nhường nhịn nhau, tựa bảy người hiền ở rừng Trúc.

Sông núi chớ đem so với Tô Tần, Trương Nghi,

Vì nước, nào ngại phải cúi lạy giữa xứ người.

Dịch thơ:

Hai năm từ chén rượu chia tay, Tôi đến Linh Xuyên giữa hạ này.

Đường dọc lối ngang, ngàn lối chuyển, Theo thuyền trung tín, vạn dòng xoay. Ao Sen người quý, lo tròn phận,

Rừng Trúc bậc hiền, vẹn thảo ngay. Đừng sánh Tô, Trương, sông núi mỉa, Lạy quỳ vì nước ngại gì thay.


196.

和副使阮迪吉湘江晚泛原韻9興安縣北過花橋

湘水奔流畫鷁飄灣陡風高清客況長灘波定伏塵囂10


6 Tố lý: giày trắng, ý nói giữ bổn phận của mình.

Liên xã: Đời Đông Tấn, sư Tuệ Viễn ở núi Lư Sơn, cùng tu pháp môn tịnh độ với nhóm Lưu Di Dân, bên trong núi có ao sen trắng, nhân đó gọi là Liên xã (Liên xã tiên hiền truyện). Những người tu theo pháp môn Tịnh độ tông, sau khi chết được tiếp dẫn về phương Tây, sinh ra từ hoa sen báu, nên gọi là Liên xã.

7 Trúc lâm hiền: bảy vị hiền ở rừng Trúc, gồm Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào, Hướng Tú, Lưu Linh, Tử Hàm, Vương Nhung.

8 Tô, Trương: tức Tô Tần và Trương Nghi, hai người là bạn

thân, đều là những du thuyết giỏi thời Chiến quốc. Hai câu cuối ý nói, tác giả không giống như Tô Tần và Trương Nghi đi thờ nước khác.

9 Bài thơ này, trong bản của Trần Kinh Hoà chỉ đề tựa là 和副使阮迪吉 “Hoạ Phó sứ Nguyễn Địch Cát”.

10 Nguyên chú: 灣陡陡名長灘灘名 (Loan Đẩu, tên gò núi;

Trường Than, tên bến nước). Lời chú này vốn đặt ở sau tựa đề bài thơ, chúng tôi đặt ở đây cho hợp.


落霞影弔靈妃竹斜日陰封聖壽椒護送鑼聲鳴界首雁行花舫繫桑條

HOẠ PHÓ SỨ NGUYỄN ĐỊCH CÁT TƯƠNG GIANG VÃN PHIẾM NGUYÊN VẬN

Hưng An huyện bắc quá hoa kiều, Tương thuỵ bôn lưu hoạ nghịch phiêu. Loan Đẩu phong cao thanh khách huống, Trường Than ba định phục trần hiêu.

Lạc hà ảnh điếu Linh phi trúc,1Tà nhật âm phong Thánh thọ tiêu.

Hộ tống la thanh minh giới thủ, Nhạn hàng hoa phảng hệ tang điều. Dịch nghĩa:

HOẠ NGUYÊN VẬN BÀI CHIỀU ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG TƯƠNG CỦA PHÓ SỨ NGUYỄN ĐỊCH CÁT

Thuyền qua cầu hoa phía bắc huyện Hưng An, Nước sông Tương chảy nhanh thuyền sứ trôi. Gò Loan Đẩu gió lộng làm vơi đi tình trạng khách,

Bến Trường Than sóng lặng, làm lắng sự ồn ào của cõi trần.

Ráng chiều rơi, bóng treo trên ngọn trúc Linh phi,

Ánh chiều tà phủ ngập hoa hồ tiêu dâng mừng thọ vua.

Tiếng chiêng của đoàn hộ tống vang đầu bến nước,

Thuyền hoa neo ở bờ dâu như đàn nhạn xếp hàng.

Dịch thơ:

Hưng An huyện bắc, lại qua cầu, Tương Thuỷ nước triều ta lướt mau. Loan Đẩu gió lồng, vơi nỗi khách, Trường Than sóng lặng, bặt lo âu. Hồ tiêu Thánh thọ, pha màu nắng, Khóm trúc Linh phi, mắc bóng sầu. Hộ tống chiêng vang đầu bến nước, Thuyền hoa như nhạn giữa ngàn dâu.


197.

舟中端陽

路窮綠水復青山終覺乾坤是大閑金鼓忽逢人兢渡萍蓬尚唱我陽關荷風枕角清香過


1 Linh phi trúc: trúc Linh phi, chỉ trúc đốm vàng ở sông Tương.

梅雨篷頭白打潸念切太和2趨進日菖蒲獻3壽出4朝班

CHU TRUNG ĐOAN DƯƠNG

Lộ cùng lục thuỵ phục thanh san, Chung giác càn khôn thị đại nhàn, Kim cổ hốt bồng nhân cắng độ.

Bình bồng thượng xướng ngã Dương Quan,5 Hà phong chẩm giác thanh hương quá,

Mai vũ bồng đầu bạch đả san, Niệm thiết Thái Hoà xu tiến nhật, Xương bồ hiến thọ xuất triều ban. Dịch nghĩa:

TẾT ĐOAN DƯƠNG TRONG THUYỀN

Đường xa vời, hết sông biếc lại núi xanh, Mới biết đất trời quả là rộng lớn.

Chuông trống gặp người khua tranh qua sông, Trôi nổi tựa bèo cỏ, vẫn hát khúc Dương Quan. Gió mang hương sen thoảng qua bên gối,

Cơn mưa mai gõ râm ran vào mái thuyền. Lòng luôn nghĩ đến ngày vào điện Thái Hoà, Xương bồ mừng thọ, đứng dưới sân triều.

Dịch thơ:

TẾT ĐOAN DƯƠNG TRONG THUYỀN

Đường xa núi thẳm, tiếp sông ngàn, Mới biết vô cùng cõi thế gian.

Chiêng trống người qua, vang tiếng đón, Bình bồng tôi hát khúc Dương Quan.

Gió sen bên gối đưa hương thoảng, Mưa hạ đầu song gõ điệu tràn.

Da diết Thái Hoà khi hội ngộ, Xương bồ mừng thọ giữa triều ban.


202.

和請封使黎兵部晉齋全州端午艾旗影眩北堂萱

鈷鉧潭溫夏氣暄角黍送盤逢縣宴菖蒲賜酒憶君恩靈渠可濬溝爲蕞6怨竹難乾泪有根懷古思鄉行客事驚人華髩落芳樽


2 Nguyên chú: 富春京殿 (kinh điện ở Phú Xuân).

3 Bản Trần Kinh Hoà chép chữ này là

4 Bản Trần Kinh Hoà chép chữ này là

5 Dương Quan: cửa ải tại tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Thơ

Vương Duy đời Đường có câu: Khuyến quân cánh tận bôi trung tửu, Tây xuất Dương Quan vô cố nhân (Khuyên anh cạn hết chén rượu này, ra khỏi Dương Quan về tây sẽ không còn ai là bạn cũ). Sau Dương Quan dùng để chỉ cảnh ly biệt, cô đơn ở xứ người.

6 Nguyên chú: 湘灕分派渠曰靈渠 (Sông Tương Ly chia nhánh

gọi là kênh Linh). Nguyên chú này vốn để cuối bài thơ, chúng tôi để lên đây cho hợp.


HOẠ THỈNH PHONG SỨ LÊ BINH BỘ TẤN TRAI TOÀN CHÂU ĐOAN NGỌ

Ngải kỳ ảnh huyễn bắc đường huyên, Cổ mẫu đàm ôn hạ khí huyên.

Giác thử tống bàn phùng huyện yến, Xương bồ tứ tửu ức quân ân.

Linh cừ khả tuấn câu vi toại, Oán trúc nan can lệ hữu căn.1 Hoài cổ tư hương hành khách sự,

Kinh nhân hoa mấn lạc phương tôn.

Dịch nghĩa:

HOẠ BÀI TIẾT ĐOAN NGỌ Ở TOÀN CHÂU CỦA THỈNH PHONG SỨ BINH BỘ LÊ TẤN TRAI

Bóng cờ lá ngải mờ lẫn trong cỏ huyên nơi nhà phương bắc,

Nước trong đầm nóng như chiếc bàn là, mùa hè nắng ấm.

Tặng mâm bánh tro, gặp tiệc đãi nơi huyện, Ban rượu xương bồ, làm ta nhớ đến ơn vua. Dòng kênh Linh có thể khơi thông, nhờ những ngòi nước nhỏ,

Đốm trúc vàng mang nỗi oán khó phai, lệ thấm sâu.

Ôn chuyện xưa, nhớ quê nhà, là chuyện của khách đi xa,

Giật mình thấy mái tóc hoa rơi vào chén rượu thơm.

Dịch thơ:

Cờ xí, cỏ huyên lẫn bóng mờ, Nước đầm cũng nóng bởi hè trưa.

Huyện đưa bánh nếp nhân đoan ngọ, Ban rượu xương bồ nhớ đức vua.

Ngòi nhỏ khai dòng kênh hoá lớn, Trúc vàng khôn ráo lệ năm xưa.

Khách thường hoài cổ, thương quê, chợt: Chén rượu chan đầy mái tóc phơ.


205.

遊湘山光孝寺 第一禪林出楚南靈光示寂儼蓮龕有緣塵躅瞻真跡

無量慈風散古庵2虎臥白雲修証果鳥依飛錫念瞿曇牧牛歌在人何去3誰闢禪關爲我叅


1 Oán trúc: cũng như Linh phi trúc.

2 Nguyên chú: 無量壽佛湼槃在此真身髤漆尚存 (Phật Vô

Lượng Thọ nhập niết bàn ở nơi này, tượng sơn chân thân vẫn còn ở đây).

3 Nguyên chú: 佛有牧牛歌詞行世 (Đạo Phật có bài ca chăn

trâu lưu hành ở đời).

DU TƯƠNG SƠN QUANG HIẾU TỰ 4

Đệ nhất thiền lâm xuất Sở nam,5

Linh quang thị tịch nghiễm liên kham.6 Hữu duyên trần trục chiêm chân tích, Vô Lượng từ phong tản cổ am.7

Hổ ngoạ bạch vân tu chứng quả,8 Điểu y phi tích niệm Cù Đàm.9 Mục ngưu ca tại nhân hà khứ?10 Thuỳ tịch thiền quan vị ngã tham.

Dịch nghĩa:

DẠO CHÙA QUANG HIẾU Ở TƯƠNG SƠN

Rừng thiền (ngôi chùa) này nổi tiếng nhất của vùng phương nam đất Sở,

Ánh sáng linh thiêng khi Phật nhập niết bàn vẫn còn ở tháp sen (tháp Phật).

Ta có duyên may trong đường trần nên được chiêm ngưỡng dấu tích xưa,

Làn gió từ bi của đức Vô Lượng Thọ Phật làm mát mẻ ngôi miếu cổ.

Cọp nằm trong mây trắng (chính pháp, thiện pháp), nên được chứng quả,

Chim nương theo gậy thiền, cùng niệm hiệu Phật.

Bài ca “Chăn trâu” vẫn còn đây, mà người đi đâu?

Ai là người mở cửa Thiền để ta vào?

Dịch thơ:

Rừng Thiền đệ nhất chốn phương nam, Ánh sáng thiêng xưa rực tháp trầm.

Ta có duyên trần, xem dấu cũ, Vô biên gió mát, toả đầy am. Cọp theo chính pháp, tu nên quả,

Chim hướng gậy thiền, hót Phạm âm. Đâu mất người xưa? Còn khúc hát…


4 Tương Sơn: còn có tên gọi khác là Quân Sơn, Động Đình Sơn, nằm trong hồ Động Đình phía Tây Nam huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Mặt trước đối với lầu Nhạc Dương ở cửa Tây thành. Trong sách của đạo cho rằng đây là phúc địa thứ 11.

5 Sở nam: chỉ vùng phía nam của nước Sở ngày xưa, tức vùng Động Đình, Thương Ngô. Chiến quốc sách, Sở sách có dẫn lời

Tô Tần nói: “Sở là nước lớn trong thiên hạ, phía tây có đất Kiềm Trung, Vu Quận; phía đông có Hạ Châu, Hải Dương; phía nam có Động Đình, Thương Ngô; phía bắc có Tuần Dương ngăn chặn Phần Kinh; đất đai rộng năm ngàn dặm, là nơi có thể dựng nghiệp bá vậy”.

6 Thị tịch: thị hiện Niết bàn, chỉ chư Phật chư Bồ tát các nhà đạo đức bỏ cái thân lúc mất.

7 Vô Lượng: tức còn gọi là Vô Lượng Quang Phật, Vô Lượng

Thọ Phật, Vô Lượng Quang Như Lai đều chỉ danh hiệu của đức Phật A Di Đà. A Di Đà (Amitabha) chữ phạn có nghĩa ánh sáng vô cùng, thọ mạng vô lượng.

8 Chứng quả: đạt được quả vị, Phật giáo có bốn bậc quả vị từ cao đến thấp là: quả vị Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn.

9 Cù Đàm: hay Cồ Đàm, phiên từ chữ Gautama, tên của Phật

Thích Ca, vì họ thánh của ngài là Cồ Đàm, nên người ta gọi ngài như vậy.

10 Mục ngưu ca: bài ca chăn trâu có 10 bài, dụ ý chăn dắt tâm ý của người tu hành trở về với bản tâm.


Cửa Thiền ai mở để ta thăm?


207/1

湖南道中舟行雜詠隨風回粵商艇

逐水上燕使舟迎送行人困倦年來雲白山頭

HỒ NAM ĐẠO TRUNG CHU HÀNH TẠP VỊNH

(KỲ NHẤT)

Tùy phong hồi Việt thương đĩnh,1 Trục thủy thướng Yên sứ chu. 2 Nghênh tống hành nhân khốn quyện, Niên lai vân bạch sơn đầu.

Dịch nghĩa:

TẠP VỊNH KHI ĐI THUYỀN Ở HỒ NAM

Bài 1

Xuôi theo gió, ghe người buôn về đất Lưỡng Quảng,

Ngược dòng nước, thuyền sứ lên Yên Kinh. Đưa tiễn người đi đường mệt mỏi này,

Chỉ có mây trắng phủ đầu núi khi năm mới sang.

Dịch thơ:

Thuyền buôn xuôi gió về Việt, Thuyền sứ ngược dòng đến Yên. Đưa tiễn hành nhân mỏi mệt, Xuân sang, mây trắng đầu ngàn.


208/2

晴川荇帶牽興晚席荷風襯涼綠水臨窗進盥青山夾道稱觴

(KỲ NHỊ)

Tình xuyên hạnh đới khiên hứng, Vãn tịch hà phong sấn lương.

Lục thuỵ lâm song tiến quán, Thanh sơn giáp đạo xưng thương. Dịch nghĩa:

BÀI 2

Sông quang tạnh, cỏ hạnh dẫn dắt hứng thơ, Tối trải chiếu ngồi, gió mang hương sen ngấm lạnh tay áo.

Dòng sông ghé mé cửa như dâng chậu nước, Núi xanh xanh đường hẹp tựa chiếc li.

Dịch thơ:

Cỏ hạnh sông trong gợi hứng, Chiếu đêm gió mát hương sen. Nước xanh vào song dâng chậu,


1 Việt: chỉ vùng đất Quảng Đông Quảng Tây.

2 Yên: chỉ Bắc Kinh.

Núi biếc đường quanh tựa đèn.


209/3

夜來舷泊煙樹杳渺如浮漢槎睡起濕雲風捲半天擲出山家

(KỲ TAM)

Dạ lai huyền bạc yên thụ, Diểu miểu như phù Hán tra.3

Thuỳ khởi thấp vân phong quyển, Bán thiên trịch xuất sơn gia.

Dịch nghĩa:

BÀI 3

Đêm về thuyền đỗ hàng cây vương khói, Xa xa trông như bè Hán bồng bềnh.

Ngủ dậy, đám mây ướt bị gió cuốn lên, Lưng chừng trời, thoáng hiện nhà xóm núi. Dịch thơ:

Đêm buông đậu thuyền cây khói, Thấp thoáng như bè Hán trôi.

Ngủ dậy mây sương gió cuốn, Nhà ai hé lộ lưng trời?


210/4

坐愛隨身夏扇行看示我周行前程且記如此十里自有一塘

(KỲ TỨ)

Toạ ái tuỳ thân hạ phiến, Hành khan thị ngã chu hàng.4 Tiền trình thả ký như thử, Thập lý tự hữu nhất đường. Dịch nghĩa:

BÀI 4

Ngồi thích bên mình có quạt, Đi xem để rõ đường đi.

Lộ trình phía trước đã ghi chép như thế, Mười dặm tự có một gò ao.

Dịch thơ:

Ngồi thích, bên thân có quạt, Đi đường đường lớn thì coi. Tiền trình chẳng sai đà chép: Mười dặm có một ngọn đồi.


211/5


3 Hán tra: bè Hán.

4 Chu hàng: đường lớn. Kinh Thi có câu: Nhân chi hiếu ngã, thị

ngã chu hàng (Người thích ta, bảo ta đi đường lớn), thơ Quyển nhĩ có câu: ta ngã hoài nhân, trí bỉ chu hàng (ôi ta nhớ người, để người đi đường lớn).


人聚山腰成邑客來巖麓艤航語言人客相左明月猶如故鄉

(KỲ NGŨ)

Nhân tụ sơn yêu thành ấp, Khách lai nham lộc nghĩ hàng. Ngữ ngôn nhân khách tương tả, Minh nguyệt do như cố hương. Dịch nghĩa:

BÀI 5

Người họp ở chân núi thành làng ấp, Khách đến đỗ thuyền ở chân đồi.

Ngôn ngữ của ta với khách trái nhau,

Chỉ có trăng sáng vẫn giống như ở quê hương.

Dịch thơ:

Người họp lưng đèo lập ấp,

Khách vào, thuyền ghé chân truông. Ngữ ngôn ta khách sai biệt,

Trăng sáng như miền cố hương.


212/6

山田經畫碁罫石逕宛轉波紋野叟相忘世事背人黃麥自耘

(KỲ LỤC)

Sơn điền kinh hoạ kỳ quái, Thạch kính uyển chuyển ba văn. Dã tẩu tương vong thế sự,

Bối nhân hoàng mạch tự vân.

Dịch nghĩa:

BÀI 6

Ruộng trên núi (ruộng cao) giăng như vẽ thành bàn cờ,

Lối đá quanh co như lượn sóng. Ông già quê quên cả việc đời,

Khom lưng một mình cày cấy lúa mạch vàng.

Dịch thơ:

Ruộng non như bàn cờ vẽ, Đường sỏi sóng gợn mấp mô. Ông lão quê quên thế sự, Lúa vàng cặm cụi cày bừa.


213/7

斜陽放砲汎泊落月鳴鑼船開佳景不須登眺奇峰當戶擎來

(KỲ THẤT)

Tà dương phóng pháo phiếm bạc, Lạc nguyệt minh la thuyền khai. Giai cảnh bất tu đăng thiếu,

Kỳ phong đương hộ kình lai.

Dịch nghĩa:

BÀI 7

Trời chiều súng pháo bắn, ghé thuyền nghỉ, Trăng lặn, chiêng nổi, thuyền ra đi.

Cảnh đẹp không cần lên cao ngắm, Núi lạ mở cửa sổ ngồi xem.

Dịch thơ:

Bóng tà pháo nổ, đỗ bến,

Nguyệt lặn chiêng vang, thuyền đi. Cảnh đẹp cần chi lên ngóng,

Non kỳ, chống cửa lắm khi.


214/8

篋重近添詩草壺輕頻覆酒盃江花何必問主且看及時花開

(KỲ BÁT)

Khiếp trọng cận thiêm thi thảo,1 Hồ khinh tần phúc tửu bôi.

Giang hoa hà tất vấn chủ, Thả khán cập thời hoa khai. Dịch nghĩa:

BÀI 8

Tráp nặng thêm vì gần đây thêm thơ mới, Bầu rượu nhẹ dần vì thường rót rượu uống. Hoa bên bờ sông chẳng cần hỏi chủ nhân, Hoa cũng nở kịp lúc để ta xem.

Dịch thơ:

Tráp nặng vì thêm thơ mới,

Bầu nghiêng bởi dốc rượu hoài. Hoa sông đâu cần hỏi chủ, Cũng nở kịp thời ta coi.


226.

祭風臺

搖橹輕舟掠水來南屏山下見遺臺蘆花倚阜禳旗展鴉翅翻樷羽扇開學究也知風可借運移無柰2力難囘江山愛護忠純跡銅雀當年已綠苔

TẾ PHONG ĐÀI

Dao lỗ khinh chu lược thuỵ lai, Nam Bình sơn hạ kiến di đài.3


1 Câu này nhắc đến ý Lý Hạ làm thơ thường cưỡi lừa đi, mang theo túi gấm, hễ làm được câu nào hay thì bỏ vào đấy, đến khi về thì soạn lại.

2 Nguyên văn khắc chữ nại , đúng ra phải là .

3 Đài cầu gió đông do Gia Cát Lượng dựng ở núi Nam Bình.


Lô hoa ỵ phụ nhương kỳ triển, Nha sí phiên tùng vũ phiến khai.1 Học cứu dã tri phong khả tá,

Vận di vô nại lực nan hồi.

Giang sơn ái hộ trung thuần tích, Đồng Tước đương niên dĩ lục đài.2 Dịch nghĩa:

ĐÀI CẦU GIÓ

Mái chèo lay nhẹ, thuyền rẽ nước đi, Dưới núi Nam Bình còn ngôi đài sót lại. Hoa lau dựa gò như cờ cầu gió giương lên,

Cánh quạ trở trong bụi rậm tựa chiếc quạt lông mở ra.

Học mà suy xét sâu xa cũng biết rằng gió có thể mượn được,

Vận mệnh đã thay đổi không thể làm gì được, sức người khó cứu vãn.

Sông núi thích bảo vệ vết tích của người trung trinh,

Còn lầu Đồng Tước, ngay năm ấy đã phủ ngập rêu xanh.

Dịch thơ:

Thuyền nhẹ đưa chèo rẽ nước bay, Nam Bình dưới núi, một ngôi đài. Bên gò lau trắng như cờ xí,

Giữa bụi quạ chuyền tựa quạt ai. Mượn gió, bởi nhờ suy xét kỹ, Sức người, vận đổi khó vần xoay.

Trung thuần, sông núi còn che chở, Đồng Tước năm xưa rêu phủ dày.


235.

漢陽府縣二幕賓魏金二記室各將畫扇懇余題咏其一兩美人梧桐下觀書其一美人梧下囓指如有所思丫鬟執柳枝侍側其一美人松下乘凉其一墨闌余因酒席熏心援筆塞責

習靜閑開小院東梳粧二女宛圖中羞人默念因緣譜按歲潛分正閏桐筆墨有情和日月鶯花無意出簾櫳秘辛心薄風流惡酷愛喬家嫁兩雄

HÁN DƯƠNG PHỦ HUYỆN NHỊ MẠC TÂN NGUỲ KIM NHỊ KÝ THẤT CÁC TƯƠNG HOẠ PHIẾN KHẨN DƯ ĐỀ



1 Hai câu này, tác giả vừa tả thực cảnh nơi núi Nam Bình, và liên tưởng đến hình ảnh của Gia Cát Lượng năm xưa, tay cầm quạt lông, cắm cờ cầu gió trên đài.

2 Đồng Tước: lầu Đồng Tước, tên đài do Tào Tháo dựng lên trước khi đem quân đánh đất Ngô, di chỉ còn tây nam huyện

Lâm Chương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.

VỊNH, KỲ NHẤT LƯỠNG MỸ NHÂN NGÔ ĐỒNG HẠ QUAN THƯ, KỲ NHẤT MỸ NHÂN NGÔ HẠ KHIẾT CHỈ NHƯ HỮU SỞ TƯ, NHA HOÀN CHẤP LIỄU CHI THỊ TRẮC, KỲ NHẤT MỸ NHÂN TÙNG HẠ THỪA LƯƠNG, KỲ NHẤT MẶC LAN, DƯ NHÂN TỬU TỊCH HUÂN TÂM VIỆN BÚT TẮC TRÁCH

Tập tĩnh nhàn khai tiểu viện đông, Sơ trang nhị nữ uyển đồ trung.

Tu nhân mặc niệm nhân duyên phả, Án tuế tiềm phân chính nhuận đồng. Bút mặc hữu tình hoà nhật nguyệt, Oanh hoa vô ý xuất liêm lung.

Bí tân tâm bạc phong lưu ác, Khốc ái Kiều gia giá lưỡng hùng.3 Dịch nghĩa:

HAI VỊ KHÁCH NGUỲ, KIM GIỮ CHỨC KÝ THẤT CỦA HAI MẠC PHỦ HUYỆN HÁN DƯƠNG, MỖI NGƯỜI ĐEM QUẠT XIN TÔI ĐỀ VỊNH, MỘT BỨC VẼ HÌNH HAI NGƯỜI ĐẸP ĐỨNG DƯỚI CỘI NGÔ ĐỒNG XEM SÁCH, MỘT NGƯỜI ĐẸP ĐỨNG DƯỚI CÂY CẮN MÓNG TAY VẺ NHƯ SUY NGHĨ LẮM VẬY, CÔ GÁI HẦU CẦM NHÁNH LIỄU ĐỨNG HẦU BÊN CẠNH, MỘT NGƯỜI ĐẸP ĐỨNG DƯỚI CỘI TÙNG HÓNG MÁT, MỘT BỨC TRANH LAN MẶC, TÔI LÚC NHÂN HỨNG RƯỢU NỒNG TRONG LÒNG, CẦM BÖT ĐỀ THƠ

Nhàn nhã ngồi trong mé đông khu vườn nhỏ, Có hai cô gái trang điểm, ở trong bức tranh. Thầm đọc chuyện nhân duyên, vẻ e thẹn hiện lên nét mặt,

Xét tuổi tác, thầm biết ai chủ ai hầu.

Bút mực có thần tình thì cùng lâu dài với vũ trụ,

Chim hoa không có ý gì thì được thả lồng bay. Tấm lòng khắc bạc, thì để tiếng phong lưu xấu, Mộ thay nhà họ Kiều gả hai người con gái cho hai bậc hùng.


236.

活向圖中立阿嬌可人憐處筆難描含嚬佀恨無金屋不語如傷費絳綃靜看雲根同影幻暗驚梧葉逐霜凋


3 Câu này nhắc chuyện nhà họ Kiều ở Đông Ngô có hai chị em xinh đẹp là Đại Kiều và Tiểu Kiều, Đại Kiều được gả cho vua nước Ngô là Tôn Sách, Tiểu Kiều gả cho Chu Du.


丫頭未解春虛度爭向風前闘柳腰

(KỲ NHỊ)

Hoạt hướng đồ trung lập ả kiều, Khả nhân liên xứ bút nan miêu. Hàm tần tự hận vô kim ốc,

Bất ngữ như thương phí giáng tiêu. Tĩnh khán vân căn đồng ảnh huyễn, Ám kinh ngô diệp trục sương điêu. Nha đầu vị giải xuân hư độ,

Tranh hướng phong tiền đấu liễu yêu.

Dịch nghĩa:

BÀI 2

Trong tranh có cô gái đứng thật sống động, Chỗ khiến người ta thương xót, thì bút mực khó vẽ nổi.

Nhíu mặt như hận không người làm nhà vàng để ở,

Chẳng nói như đau lòng phí sức mặc lụa đỏ. Nhàn nhìn mây núi như bóng ảo,

Thầm kinh lá ngô đồng rụng theo sương.

Cô bè hầu chẳng biết, mùa xuân trôi qua vô ích,

Tranh eo liễu cùng rặng liễu trước làn gió xuân.


237.

蛟綃一幅抵千金粧束佳人趁綠陰漫道柳姿耽雪咏堪將松節比氷心輕營足下鞋無印濃淡眉頭筆乍簪掌上舞酣風韻逸撩人時向夢中尋

(KỲ TAM)

Giao tiêu nhất bức để thiên kim, Trang thúc giai nhân sấn lục âm. Mạn đạo liễu tư đam tuyết vịnh, Kham tương tùng tiết tỵ băng tâm. Khinh doanh túc hạ hài vô ấn, Nùng đạm my đầu bút sạ trâm.

Chưởng thượng vũ hàm phong vận dật, Liêu nhân thời hướng mộng trung tầm. Dịch nghĩa:

BÀI 3

Lụa hoa một bức, giá ngàn vàng,

Người đẹp trang điểm xong, bước đến bóng cây xanh.

Dáng liễu thon thả, lời nói hay như thơ vịnh tuyết,

Khí tiết của cội tùng sánh với tấm lòng băng. Bước đi nhẹ nhàng, chẳng in lại dấu vết,

Nét mày nồng nhạt, nét mỏng tựa kim. Trên tay nhảy múa, tiếng gió nhàn dật,

Khiến người ta phải thường mong tìm trong mơ.


238.

不從凡卉競榮枯九畹移栽世外區掌上僊方收汗有毫端春色惹塵無國香只許騷人賞玉珮那容粉蝶汙生意年來長活潑流連翰墨共歡娛

(KỲ TỨ)

Bất tòng phàm huỵ cạnh vinh khô, Cửu uyển di tài thế ngoại khu.1

Chưởng thượng tiên phương thu hãn hữu, Hào đoan xuân sắc nhạ trần vô.

Quốc hương chỉ hứa tao nhân thưởng,2 Ngọc bội na dung phấn điệp ô.

Sinh ý niên lai trường hoạt bát, Lưu liên hàn mặc cộng hoan ngu. Dịch nghĩa:

BÀI 4

Chẳng cùng loài cỏ cây tầm thường tranh nhau chuyện héo tươi,

Hoa lan được trồng vào trong vùng xa trần đời. Cõi tiên trên lòng tay, muốn hái thật khó,

Cảnh xuân nơi chân mày, chẳng nhiễm bụi trần.

Mùi thơm của lan chỉ dành bậc tao nhân thưởng thức,

Vẻ đẹp như ngọc nào chịu bọn ong bướm làm dơ.

Bao năm mà vẻ đẹp vẫn luôn sống động,

Lưu luyến cùng người bút mực chung niềm vui.


255.

使停河南遊相國寺達本禪師以淨土津梁經見 示 因 索 題 贈

穿林曲徑到禪堂近接高僧禮梵王蓮瓣茶餘忘彼我菩提樹下是津梁


1 Cửu uyển: ruộng nhiều mẫu, ở đây dùng chỉ hoa lan. Sở từ, Ly Tao của Khuất Nguyên có câu: Dư ký tư lan chi cửu uyển hề, hựu thụ huệ chi bách mẫu (ta đã ươm lan vào ruộng nhiều mẫu, lại trồng thêm huệ vào ruộng trăm mẫu). Về sau, cửu uyển dùng để chỉ hoa lan.

2 Quốc hương: do từ “quốc sắc thiên hương” (sắc nước hương trời), chỉ vẻ đẹp tuyệt vời. Ở đây có lẽ nói lan chỉ dành cho

những bậc tao nhân thưởng thức.


猿歸苔護拈花跡虎去雲封聽法場時向檀那開覺路紅塵之外是西方

SỨ ĐÌNH HÀ NAM DU TƯỚNG QUỐC TỰ1 ĐẠT BỔN THIỀN SƯ DĨ TỊNH ĐỘ TÂN LƯƠNG KINH KIẾN THỊ NHÂN SÁCH ĐỀ TẶNG

Xuyên lâm khúc kính đáo thiền đường, Cận tiếp cao tăng lễ Phạm vương.

Liên biện trà dư vong bỉ ngã,2 Bồ đề thụ hạ thị tân lương.

Viên quy đài hộ niêm hoa tích,3

Hổ khứ vân phong thính pháp trường. Thời hướng đàn na khai giác lộ, Hồng trần chi ngoại thị tây phương. Dịch nghĩa:

SỨ ĐOÀN DỪNG Ở HÀ NAM, DẠO CHƠI CHÙA TƯỚNG QUỐC, THIỀN SƯ ĐẠT BẢN ĐEM KINH TỊNH ĐỘ TÂN LƯƠNG CHO XEM, NHÂN ĐÓ LÀM THƠ ĐỀ TẶNG

Xuyên qua con đường rừng đến thiền đường, Được gần gũi vị cao tăng, lễ Phật.

Uống trà cánh sen quên mất chủ khách, Dưới cội bồ đề chính là bờ bến tân lương.

Vượn trở về, rêu phong vết cầm hoa cười mỉm, Hổ đi, mây phủ mờ sân nghe pháp,

Ngài thường mở ra con đường giác ngộ cho người mộ Phật,

Vượt ra ngoài cõi hồng trần chính là Tây phương.

Dịch thơ:

Xuyên rừng lối nhỏ đến thiền đường, Thân cận cao tăng, lễ Phạm vương. Một chén trà sen, quên khách chủ, Bồ đề dưới cội, ấy tân lương.

Vượn về, rêu phủ niêm hoa tích,

Hổ lánh, mây che thính pháp trường. Thường hướng đàn na khai bến giác, Ngoài hồng trần ấy chính tây phương.


256.

河南公館病起就道夜行吟惟思不辱燥心肝


1 Tướng Quốc tự: chùa Tướng Quốc, nằm ở đông bắc huyện trị Khai Phong, Hà Nam, chùa xây vào năm Thiên Bảo thứ 6 triều Tề, tên gọi là Kiến Quốc. Đời Đường Duệ Tông đổi tên thành Tướng Quốc tự, sang đời Tống trên biển đề là Đại Tướng Quốc tự.

2 Vong bỉ ngã: quên người quên ta, quên chủ quên khách, tức vô tâm.

3 Niêm hoa: rút từ “niêm hoa vi tiếu”. Theo Truyền đăng lục nói:

Lúc Thế Tôn thuyết pháp trên núi Linh Sơn, bấy giờ ngài cầm một cành hoa giơ lên bảo với chúng hội, mọi người đều im lặng, chỉ có Tôn giả Ca Diếp là lĩnh hội mỉm cười.

力薄頻開疾病端芩栢違人偏適口風霜慣我作常餐栖遲養自乾坤館調燮功從水火丹騎杖登輿翹四望嵩陽雲峙月陰團

HÀ NAM CÔNG QUÁN BỆNH KHỞI TỰU ĐẠO DẠ HÀNH NGÂM

Duy tư bất nhục táo tâm can, Lực bạc tần khai tật bệnh đoan.

Cầm bách vi nhân thiên thích khẩu, Phong sương quán ngã tác thường xan. Thê trì dưỡng tự càn khôn quán,

Điều tiếp công tòng thuỵ hoả đan. Kỳ trượng đăng dư kiều tứ vọng, Tung Dương vân trĩ nguyệt âm đoàn. Dịch nghĩa:

HẾT BỆNH TỪ CÔNG QUÁN TỈNH HÀ NAM LÊN ĐƯỜNG, NGÂM LÖC ĐI TRONG ĐÊM

Chỉ nghĩ một điều làm sao không nhục mệnh sứ, thiêu đốt cả tâm gan,

Sức yếu nên thường bị tật bệnh xâm nhập.

Cỏ cầm, rượu bách (thuốc) thường xưa ít uống, nay lại được uống đến khoái cả miệng,

Sương gió quen ta rồi, coi như là cơm bữa.

Cứ lần lữa bệnh hoạn trong nhà trọ của đất trời,

Công điều trị là ở thuốc linh đan thuỵ hoả. Khi cỡi ngựa lúc ngồi xe, trông ngóng bốn bề, Ngọn núi Tung Dương phủ mây, có bóng nguyệt tròn tròn.


257.

渡黃河

獻來琛賮値淸時一葉橫流界險巇竹箭奔湍花櫂急石尤狂颭斗槎遲半生世味同河淡五載鄉情有夢知囘首塵中車馬客臨津不少阮生悲

ĐỘ HOÀNG HÀ

Hiến lai sâm tẫn trị thanh thời, Nhất diệp hoành lưu giới hiểm hy. Trúc tiễn bôn thoan hoa trạo cấp, Thạch vưu cuồng triển đẩu tra trì. Bán sinh thế vị đồng hà đạm,

Ngũ tải hương tình hữu mộng tri. Hồi thủ trần trung xa mã khách,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/02/2023