迢迢一葉遠行舟兩岸蘆花夕照秋莫怪洞中人自在且看江上水空流山城蕭鼓星初落海外風波夢未休時已清平年欲暮功成之後早回頭
Điều điều nhất diệp viễn hành chu, Lưỡng ngạn lư hoa tịch chiếu thu. Mạc quái động trung nhân tự tại,
Thả khan giang thượng thuỵ không lưu. Sơn thành tiêu cổ tinh sơ lạc,
Hải ngoại phong ba mộng vị hưu. Thời dĩ thanh bình niên dục mộ, Công thành chi hậu tảo hồi đầu. Dịch nghĩa:
Một chiếc thuyền nhỏ thấp thoáng phía xa xa, Hai bên bờ núi hoa lau trắng giữa ánh nắng chiều thu.
Đừng lấy làm lạ thấy những người trong động an nhàn,
Hãy nhìn trên sông, dòng nước vẫn hững hờ trôi.
Tiếng trống tiếng sáo trên thành núi vang lên, ngôi sao sớm lặn,
Ngoài biển sóng gió vỗ gào, giấc mộng chưa thôi.
Có thể bạn quan tâm!
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 40
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 41
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 42
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 44
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 45
- Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 46
Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.
Lúc này đời đã thanh bình, năm sắp hết, Sau khi công thành, hãy sớm quay đầu. Dịch thơ:
Thấp thoáng thuyền con giữa mịt mù, Đôi bờ lau trắng nắng chiều thu.
Chớ lạ trong bưng, người tự tại, Nhìn xem sông chảy, nước êm trôi. Sơn thành sáo trống, sao vừa lặn, Biển cả phong ba, mộng chửa rồi. Đời đã bình yên, năm sắp hết,
Công thành thời sớm ngoảnh đầu thôi.
79.
27.
自從一諾重千金涉世才疏待到今江水流窮遊子淚嶺梅開盡故園心插天山色重重翠捲地灘聲滾滾沈陽朔城邊存古廟空留鐵帽倒寒林
Tự tùng nhất nặc trọng thiên kim, Thiệp thế tài sơ đãi đáo kim.
Giang thuỵ lưu cùng du tử lệ, Lĩnh mai khai tận cố viên tâm.
Sáp thiên sơn sắc trùng trùng thuý, Quyển địa than thanh cổn cổn trầm. Dương sóc thành biên tồn cổ miếu, Không lưu thiết mạo đảo hàn lâm. Dịch nghĩa:
Xưa nay một lời hứa đáng giá cả ngàn vàng, Ta bước vào đời với tài hèn nên chờ đợi đến nay.
Nước sông trôi mãi lệ hận của người du tử, Mai đầu núi nở rộ tấm lòng nhớ quê hương. Lớp lớp núi xanh lô nhô chọc lên trời,
Tiếng sóng vỗ bờ từng đợt từng đợt chìm trong lòng đất.
Bên thành Dương Sóc vẫn còn ngôi miếu cũ, Còn trơ chiếc mũ sắt giữa cánh rừng mùa đông lạnh.
Dịch thơ:
Nghìn vàng lời hứa tự xưa nay, Tài mọn còn chờ đến mãi đây. Du tử lệ trôi hoà sóng nước, Vườn xưa lòng nở rực đồi mai.
Núi xanh biêng biếc đan trời thẳm, Sóng vỗ lao xao vén đất dày.
Dương Sóc thành bên toà cổ miếu, Còn trơ mũ sắt giữa ngàn cây.
80.
28.
終朝寂寂我何堪酌酒呼朋共笑談江上已無離恨柳村中惟有合歡柑數間茅舍寒煙鎖一片蓬牕夕影含遙望故園千萬里最關情處是山南
Chung triêu tịch tịch ngã hà kham, Chước tửu hô bằng cộng tiếu đàm. Giang thượng dĩ vô li hận liễu, Thôn trung duy hữu hợp hoan cam. Sổ gian mao xá hàn yên toả,
Nhất phiến bồng song tịch ảnh hàm. Dao vọng cố viên thiên vạn lý,
Tối quan tình xứ thị Nam san.
Dịch nghĩa:
Suốt ngày vắng vẻ, làm sao chịu được, Rót rượu mời bạn bè, cùng cười nói chơi.
Trên bờ sông đã không còn cây liễu hận chia li nữa,
Trong xóm làng chỉ có cây cam hợp hoan. Mấy gian nhà cỏ tranh trong khói lạnh bao phủ,
Một mái thuyền cỏ bồng ngậm ánh nắng chiều. Xa ngóng quê hương, cách cả ngàn vạn dặm, Nơi nào hữu tình nhất, đó chính là ngọn núi phương nam.
Dịch thơ:
Suốt ngày vắng vẻ dạ sao đang? Mời bạn chuyện vui, rượu rót tràn. Liễu hận trên sông nào thấy nữa, Cam vui giữa xóm mọc ken đan.
Mấy gian nhà cỏ vùi mây lạnh,
Một mái thuyền tranh ngậm nắng tàn. Xa ngóng vườn xưa ngàn vạn dặm, Nơi tình tứ nhất ấy Nam san.
81.
29.
綺窻夜掩朔風嚴天外寒雲細雨添滾滾江流千里遠蕭蕭木落萬情兼幾回夢裡鄉關近依舊舟中日月淹喜得天涯知己共盡心酬答聖恩霑
Ỵ song dạ yểm sóc phong nghiêm, Thiên ngoại hàn vân tế vũ thiêm. Cổn cổn giang lưu thiên lý viễn, Tiêu tiêu mộc lạc vạn tình kiêm. Kỵ hồi mộng lý hương quan cận, Y cựu chu trung ngật nguyệt yêm. Hỵ đắc thiên nhai tri kỵ cộng,
Tận tâm thù đáp thánh ân triêm.
Dịch nghĩa:
Đứng tựa cửa sổ trong đêm tối mịt mùng, gió bấc thổi lạnh lùng,
Nơi trời xa mây lạnh phủ, thêm mưa phùn lất phất.
Sông chảy cuồn cuộn trôi xa cả ngàn dặm,
Lá cây rơi xào xạc hiu hắt, vạn mối tình dâng. Mấy lần trong mộng thấy đã đến gần quê hương,
Nhưng ta vẫn ở trong thuyền như cũ, ngày tháng mịt mù.
Ở chân trời mừng được cùng người tri kỵ, Cùng dốc lòng đền đáp ơn mưa móc của vua. Dịch thơ:
Song lụa đêm che, gió bấc lùa,
Ngoài trời mây lạnh rắc cơn mưa. Sông trôi cuồn cuộn xa ngàn dặm, Lá rụng tiêu điều trăm mối tơ.
Trong mộng bao lần quê cũ đến, Giữa thuyền lần lữa tháng năm đưa. Chân trời mừng được cùng tri kỷ, Dốc hết lòng son báo đức vua.
82.
30.
曾寄家書懶作函平安二字有何緘滿船明月天涯客兩岸青山一片帆事每忘機緣素拙人能無我即非凡欲窮南北東西志莫厭奇峰白石岩
Tằng ký gia thư lãn tác hàm, Bình an nhị tự hữu hà giam.
Mãn thuyền minh nguyệt thiên nhai khách, Lưỡng ngạn thanh sơn nhất phiến phàm.
Sự mỗi vong cơ duyên tố chuyết, Nhân năng vô ngã tức phi phàm, Dục cùng nam bắc đông tây chí,
Mạc yếm kỳ phong bạch thạch nham.
Dịch nghĩa:
Từng viết thư về nhà, làm biếng cho vào phong thư,
Hai chữ bình an đâu cần phải phong làm gì. Trăng sáng đầy cả thuyền soi người khách xa xứ,
Núi xanh dựng hai bờ, một chiếc thuyền buồm lẻ loi.
Làm việc thường vứt bỏ tâm cơ, ấy vì giữ tính vụng về,
Người có thể vô ngã, thì là bậc phi phàm. Chí muốn đi hết vòng trời đông tây nam bắc, Thì nào chán núi non kỳ lạ khó khăn.
Dịch thơ:
Thư nhà từng viết, biếng niêm phong, Hai chữ bình an cứ để tràn.
Trăng sáng đầy thuyền riêng lữ khách, Đôi bờ núi biếc cánh buồm ngang.
Vong cơ bởi vụng khi hành sự, Vô ngã nên thành thoát thế gian. Nam bắc đông tây vùng vẫy chí, Sợ gì núi hiểm với gian nan.
104.
請封使船至未得相見集古作別時容易見時難
青鳥慇懃爲探看銀鎖重關聽未闢月移花影上欄杆
THỈNH PHONG SỨ THUYỀN CHÍ, VỊ ĐẮC TƯƠNG KIẾN TẬP CỔ TÁC 1
Biệt thời dung dị kiến thời nan, Thanh điểu ân cần vị thám khan.2 Ngân toả trùng quan thinh vị tịch, Nguyệt di hoa ảnh thướng lan can. Dịch nghĩa:
THUYỀN SỨ ĐOÀN THỈNH PHONG ĐẾN, CHƯA GẶP ĐƯỢC NHAU, HỌC THEO XƯA LÀM THƠ
Xa cách thì dễ, gặp nhau thì khó, Chim xanh ân cần thăm dò giúp ta.
Mấy làn cửa khoá bạc khoá kín, tiếng chưa mở,
Trăng rọi bóng hoa lên trên lan can.
Dịch thơ:
THUYỀN SỨ ĐOÀN THỈNH PHONG ĐẾN, CHƯA GẶP ĐƯỢC NHAU, HỌC THEO XƯA LÀM THƠ
Khó được gặp cùng, dễ cách xa, Chim xanh tha thiết dọ dùm ta. Bao lần khoá bạc còn phong kín, Trăng rọi lên thềm in bóng hoa.
107.
步艮齋並頭菊原韻並頭叢菊遶香園 開盡幽情寂不言 共戴一天三徑晚 同窺九日幾人存 籬邊夜月相憐影 檻外秋風合夢魂 若使多情還解語 聲聲應勸酒盈樽
BỘ CẤN TRAI TỊNH ĐẦU CÚC NGUYÊN VẬN
Tịnh đầu tùng cúc nhiễu hương viên, Khai tận u tình tịch bất ngôn.
Cộng đới nhất thiên tam kính vãn, Đồng khuy cửu nhật kỵ nhân tồn. Li biên dạ nguyệt tương liên ảnh,
Hạm ngoại thu phong hợp mộng hồn. Nhược sử đa tình hoàn giải ngữ,
Thanh thanh ưng khuyến tửu doanh tôn.
1 Bài thơ ảnh hưởng thơ của Lý Thương Ẩn, nên tác giả mới nói “tập cổ tác”.
2 Hai câu đầu lẫy từ bài thơ Vô đề của Lý Thương Ẩn, câu đầu
“Tương kiến thời nan biệt diệc nan” (khó gặp nhau, xa nhau càng khó) và câu cuối “Thanh điểu ân cần vị thám khan” (chim xanh ân cần thăm dò giùm ta).
Dịch nghĩa:
LÀM THEO NGUYÊN VẬN BÀI TỊNH ĐẦU CÚC CỦA CẤN TRAI
Khóm trúc bằng đầu mọc khắp vườn thơm ngát,
Hoa nở hết mối tình sâu kín nhưng lại không nói gì.
Cùng đội cả bầu trời, có ba luống cúc nở muộn,
Những người cùng nhìn hoa trong ngày trùng cửu, nay còn được bao?
Bên bờ rào, trăng đêm sáng, người và bóng thương nhau,
Ngoài hiên nhà, gió thu thổi làm hồn mộng hợp lại.
Nếu làm cho đa tình cũng vẫn phải nói, Thì nên lên tiếng khuyên rượu đầy li. Dịch thơ:
Khóm trúc bằng đầu hương toả bay, Chân tình nở hết, lặng im bày.
Một trời chung đội, ba đường muộn, Mồng chín cùng xem, có mấy ai?
Trước giậu đêm trăng, thương chiếc bóng, Ngoài hiên gió lạnh, quyện mơ say.
Đa tình dầu vậy, xin lên tiếng,
Rượu rót thật đầy khuyên khách say!
110.
沛中
得丧原非偶爾成且觀機兆已分明雲浮沛上迷秦日神哭山中旺漢聲含淚忽將三尺劍變情幸賜一杯羹天恩君德誰能辨千古寬仁大度名
BÁI TRUNG
Đắc táng nguyên phi ngẫu nhĩ thành, Thả quan cơ triệu dĩ phân minh.
Vân phù Bái thượng mê Tần nhật, Thần khốc sơn trung vượng Hán thanh. Hàm lệ hốt tương tam xích kiếm,
Biến tình hành tứ nhất bôi canh. Thiên ân quân đức thuỳ năng biện, Thiên cổ khoan nhân đại độ danh. Dịch nghĩa:
TRONG ĐẤT BÁI
Được hay mất vốn không phải ngẫu nhiên mà nên,
Hãy xem điềm báo thì đã biết ngay.
Mây mù đất Bái, làm mờ vầng nhật đất Tần,
Tiếng quỵ thần khóc trong núi sâu, thanh thế nhà Hán đang lên.
Ngậm lệ sầu trong ba thước kiếm,
Nếu thay lòng đổi dạ, nhớ ban cho bát canh. Đức của vua, ơn của trời, ai có thể biết được, Ngàn thuở khoan nhân thì được tiếng độ lượng.
Dịch thơ:
Được mất há là chuyện ngẫu nhiên, Cứ xem điềm báo biết ngay liền.
Mây giăng đất Bái, trời Tần tối, Thần khóc trong non, thế Hán lên. Nuốt lệ chịu vùi ba thước kiếm, Đổi lòng xin dự bát canh riêng.
Ơn trời, đức chúa, ai người biết,
Ngàn thuở khoan dung tiếng đức truyền.
113.
贈河南督學政吳雲樵惠送詩集何期邦外客
得覩篋中珍俊逸知無敵清高信有神汴梁欽領袖臺閣具經綸徒仰春風座匆匆笑未因
TẶNG HÀ HAM ĐỐC HỌC CHÍNH NGÔ VÂN TIỀU HUỆ TỐNG THI TẬP
Hà kỳ bang ngoại khách, Đắc đổ niếp trung trân. Tuấn dật tri vô địch, Thanh cao tín hữu thần. Biện Lương khâm lĩnh tụ, Đài các cụ kinh luân.
Đồ ngưỡng xuân phong toạ, Thông thông tiếu vị nhân. Dịch nghĩa:
LÀM TẶNG ĐỐC HỌC CHÍNH HÀ NAM NGÔ VÂN TIỀU ĐÃ TẶNG TÔI TẬP THƠ
Ngày nào làm khách ở phương xa, Chờ được thấy vật báu trong rương. Tài thơ cao vời biết là anh vô địch, Lời lẽ thanh tao tôi tin thơ có thần.
Anh là nhà thơ hàng đầu nơi Biện Lương, Chốn đài các anh là người có tài kinh luân xoay chuyển.
Luôn ngưỡng mộ tài học của anh, Chợt tự cười chẳng rõ vì đâu.
Dịch thơ:
Ngày nào làm khách ở tha hương,
Thanh cao khó sánh, tứ thơ hường. Biện Lương lãnh tụ, đành cam nhận, Đài gác kinh luân, cũng đảm đương. Ngưỡng mến tài năng mong cảm hoá, Vội vàng tự mỉa, thật hoang đường!
116.
客中夜雨
天恐星車帶月行故將霖雨注臨洺窓虛翠竹簫簫落井老蒼梧滴滴聲一片寒雲孤草店三更旅夢遠棚城聖朝恩廣沾南北故國應知沐寵榮
KHÁCH TRUNG DẠ VŨ
Thiên khủng tinh xa1 đới nguyệt hành, Cố tương sâm vũ chú lâm minh.
Song hư thuý trúc tiêu tiêu lạc,
Tỉnh lão thương ngô trích trích thanh. Nhất phiến hàn vân cô thảo điếm, Tam canh lữ mộng viễn bằng thành. Thánh triều ân quảng triêm nam bắc, Cố quốc ưng tri mộc sủng vinh.
Dịch nghĩa:
MƯA ĐÊM NƠI ĐẤT KHÁCH
Trời e sợ xe sứ chở bóng trăng đi, Nên làm mưa rào rót vào bể.
Bên song cửa hàng trúc xanh rụng tơi tả,
Bên giếng cũ từng tiếng mưa rơi vào cây ngô đồng xanh lốp đốp.
Một mảng mây lạnh che căn lều cỏ lẻ loi, Giấc mộng lữ khách ba canh xa xôi thành trì.
Ơn đức thánh triều rộng lớn gội từ nam đến bắc,
Quê hương chắc cũng được ưu ái thấm gội mưa móc.
Dịch thơ:
Trời sợ xe sao chở nguyệt về, Nên làm mưa đổ rưới lê thê. Cửa buồn trúc biếc rơi hiu hắt, Giếng cũ đồng xanh điệu não nề. Một áng mây thu lều cỏ lạnh,
Ba canh mộng khách cõi thành mê. Thánh triều ơn thấm nhuần nam bắc, Vinh hiển từ nay suốt xóm quê.
133.
湖 廣 歸 舟 途 中 作 三 十 韻
1.
Tận mắt ưa nhìn ngọc ở rương.
Tuấn dật khôn bì, thần điệu vút,
1 Tinh xa: xe sao, cũng giống như nói tinh thiều (xe sao), tinh tra (bè sao), đều có ý chỉ thuyền xe người đi sứ.
星霜幾度客途中迢遞歸舟泊晚風斜岸短蓬疎雨濕寒崖遠樹淡煙籠錦鱗釣罷漁磯寂白石歌殘鳥道通幾處渡頭人去後山城月落楚江空
HỒ QUẢNG QUY CHU ĐỒ TRUNG TÁC TAM THẬP VẬN
Tinh sương kỵ độ khách đồ trung, Điều đệ quy phàm bạc vãn phong. Tà ngạn đoản bồng sơ vũ thấp, Hàn nhai viễn thụ đạm yên lung. Cẩm lân điếu bãi ngư ki tịch, Bạch thạch ca tàn điểu đạo thông. Kỵ xứ độ đầu nhân khứ hậu,
Sơn thành nguyệt lạc Sở giang không.
Dịch nghĩa:
GIỮA ĐƯỜNG TỪ HỒ QUẢNG TRỞ VỀ LÀM BA MƯƠI BÀI
Mấy lần khách đi giữa đường trong trời sương và sao,
Xa xa chiếc thuyền buồm trở về đỗ trong gió chiều.
Bờ nghiêng nghiêng mái thuyền cỏ ướt mưa bay,
Vách núi lạnh cây ngàn xa giăng màn khói lam.
Câu xong cá trở về, còn lại hòn đá vắng,
Khúc ca người đốn củi dứt, đường chim thẳng bay.
Trên mấy bến đò, khi người đã sang sông hết, Trăng xế nơi Sơn Thành, bến sông Sở vắng không.
Dịch thơ:
Mấy độ tinh sương khách giữa đường, Buồm về thấp thoáng gió chiều giương. Mái bồng nghiêng bến mưa nhoà ướt, Cây cối lạnh bờ khói nhạt vương.
Bạch thạch ca tàn, chim thẳng cánh, Cẩm lân câu dứt, đá trơ suông.
Đò ngang bao chốn người qua hết, Sông Sở, Sơn Thành trăng xế ngang.
134.
2.
旌旗影落動蛟龍鼓棹閒過石鼓冬紅染江邊楓葉老綠拖崖上石苔濃十年湖海萍蓬跡一片山河楚越踪
客况無聊詩思苦强將杯酒豁心胸
Tinh kỳ ảnh lạc động giao long, Cổ trạo nhàn qua Thạch Cổ đông.
Hồng nhiễm giang biên phong diệp lão, Lục thi nhai thổ thạch đài nồng.
Thập niên hồ hải bình bồng tích, Nhất phiến sơn hà Sở Việt tung. Khách huống vô liêu thi tứ khổ, Cưỡng tương bôi tửu khoát tâm hung. Dịch nghĩa:
Bóng cờ in trên dòng nước làm kinh động lũ giao long,
Mái chèo nhàn nhã quẫy nước qua Thạch Cổ trong tiết trời đông.
Lá phong bên bờ sông nhuộm đỏ cả bến sông, Rêu mọc tràn phủ xanh cả vách núi.
Mười năm rồi ta như cánh bèo trôi trên sông biển,
Một mảng non sông là dấu vết của nước Sở và nước Việt.
Tình cảnh của khách buồn bã, làm tứ thơ khó nhọc,
Đành đem rượu uống giãi nỗi lòng.
Dịch thơ:
Bóng cờ in nước khiếp giao long, Thạch Cổ thuyền qua giữa tiết đông. Nhuốm đỏ bờ sông: ngàn lá thắm, Phủ xanh vách núi: đá rêu nồng.
Biển hồ bèo dạt mười năm trọn, Sở Việt non sông một mảnh lồng. Tình khách buồn hiu, thi tứ khổ,
Nỗi lòng mượn rượu chuốc cho xong.
135.
3.
煙波空使憶南邦愁陣無邊借酒降一葉輕舟歸越客滿天殘雪冷湘江雲霞樵臥山間屋風月漁眠柳外艭何處飛來王謝燕差池水上語雙雙 1
Yên ba không sử ức Nam bang, Sầu trận vô biên tá tửu hàng.
Nhất diệp khinh chu quy Việt khách, Mãn thiên tàn tuyết lãnh Tương giang.2
1 Sang sang: tiếng chim hót líu lo.
2 Tương giang: sông Tương, xuất nguồn từ núi Dương Hải huyện Hưng An, Quảng Tây, cùng nguồn với sông Li giang.
Sông Tương chảy đến phía tây huyện Linh Lăng tỉnh Hồ Nam, hợp lưu cùng Tiêu Giang hay Tiêu Thủy nên gọi là sông Tiêu Tương.
Vân hà tiều ngoạ sơn gian ốc,
Phong nguyệt ngư miên liễu ngoại sang. Hà xứ phi lai Vương Tạ yến,1
Sai trì thuỵ thượng ngữ sang sang?
Dịch nghĩa:
Khói sóng khiến ta nhớ nước Nam,
Nỗi sầu không bến bờ đành mượn rượu giãi sầu.
Một chiếc thuyền chở người khách Việt trở về, Tuyết tàn bay khắp trời, lạnh cả sông Tương.
Bác tiều nằm trong căn nhà trên núi dưới ánh ráng chiều,
Người đánh cá ngủ trên chiếc thuyền ngoài rặng liễu dưới gió trăng.
Cánh én nhà Vương Tạ từ đâu bay đến, Trên sông bay lượn hót líu lo.
Dịch thơ:
GIỮA ĐƯỜNG TỪ HỒ QUẢNG TRỞ VỀ LÀM BA MƯƠI VẦN
Khói sông giục nỗi nhớ quê hương, Bất tận sầu giăng, mượn rượu hàng. Một chiếc thuyền về nơi đất Việt, Đầy trời tuyết rắc lạnh sông Tương. Tiều nằm nhà cỏ, non mây quyện,
Ngư ngủ thuyền chài, trăng gió vương. Vương Tạ én bay về chốn lạ,
Lượn lờ trên bến hót du dương.
136.
4.
雲橫囘鴈夕陽遲石岸船頭樹影移二載一聞新國號五湖兩度故鄉思孤蓬短棹滄江臥細雨殘風畫角吹過客莫從漁父問汨羅自古楚人悲
Vân hoành hồi nhạn tịch dương trì, Thạch ngạn thuyền đầu thụ ảnh di. Nhị tải nhất văn tân quốc hiệu,2 Ngũ hồ lưỡng độ cố hương ti (tư).
Cô bồng đoản trạo thương giang ngoạ, Tế vũ tàn phong hoạ giốc xuy.
Quá khách mạc tùng ngư phủ vấn, Mịch La tự cổ Sở nhân bi.3
Dịch nghĩa:
Mây giăng ngang trời, chim nhạn bay về nghỉ, ánh tịch dương chầm chậm rơi,
Bóng cây bên bờ đá cùng đầu thuyền chuyển dời.
Hai năm mới được nghe tên nước mới,
Hai lần dạo ngũ hồ với một tấm lòng nhớ quê hương.
Nằm trên sông xanh trong chiếc thuyền tranh mái chèo ngắn,
Trong tiếng tù và thổi, với gió nhẹ mưa phùn. Khách qua đường xin chớ hỏi gì lão chài, Sông Mịch La xưa nay vẫn đắm nỗi buồn của người nước Sở.
Dịch thơ:
Nhạn về mây khẳm, ánh tà buông,
Bờ đá, cây, thuyền, bóng chuyển luôn. Hiệu nước, hai năm nay mới thuận, Tình quê, mấy thuở Ngũ hồ tuôn.
Sông xanh thuyền lá nằm yên lặng, Mưa gió tù và trỗi tiếng suông.
Xin khách đừng kêu ngư phủ hỏi,
Mịch La ngàn thuở Khuất Nguyên buồn.
137.
5.
前途江景尙熹微桂槳松舟故國歸此日動知他日靜今年是覺昔年非月寒山閣花陰瘐雨濕天涯草色肥夢有丈人來問我如何爾不息心機
Tiền đồ giang cảnh thượng hi vi, Quế tưởng tùng chu cố quốc quy. Thử nhật động tri tha nhật tĩnh, Kim niên thị giác tích niên phi. Nguyệt hàn sơn các hoa âm sấu, Vũ thấp thiên nhai thảo sắc phì. Mộng hữu trượng nhân lai vấn ngã, Như hà nhĩ bất tức tâm ki?
Dịch nghĩa:
Cảnh sắc dòng sông nơi con đường phía trước còn tờ mờ,
Thuyền thông chèo quế ta trở về quê cũ,
1 Vương Tạ yến: én nhà họ Vương, họ Tạ, xuất từ ý thơ Ô y hạng của Lưu Vũ Tích: “Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến, phi nhập tầm thường bách tính gia”.
2 Câu này nhắc chuyện nước ta, sau khi Gia Long lên ngôi, lấy hiệu nước là Nam Việt, sai Lê Quang Định làm chánh sứ sang
nhà Thanh cầu phong, nhưng nhà Thanh e ngại, phải thư từ qua lại nhiều lần, sau mới đổi hiệu nước lại thành Việt Nam.
3 Sở nhân bi: nỗi buồn của người Sở, chỉ Khuất Nguyên buồn vì bị ruồng bỏ. Hai câu cuối của bài thơ nhắc đến chuyện Khuất
Nguyên buồn rầu đi lang thang, gặp ông lão chài, hai người cùng nói chuyện, ông lão khuyên Khuất Nguyên nên sống theo thời thế, và hát khúc Thương lang: “Thương lang chi thuỵ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh; Thương lang chi thuỵ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc” (Nước sông Thương lang trong, có thể giặt giải mũ; nước sông Thương lang đục, có thể rửa chân). Hát xong, lão chài chèo ghe đi, Khuất Nguyên buồn bã, gieo mình xuống sông Mịch La tự trầm.
Ngày nay là động, biết đâu hôm khác là tĩnh, Năm nay là phải, mà năm trước là sai.
Bóng trăng lạnh soi gác núi làm bóng hoa gầy guộc,
Mưa rơi thấm ướt chân trời khiến màu cỏ tốt tươi.
Trong mơ ta thấy có người đàn ông đến hỏi ta: Sao ngươi chẳng chịu ngừng tâm cơ lại?
Dịch thơ:
Tờ mờ cảnh sắc lối sông mê, Chèo quế thuyền lan, cố quốc về. Ngày ấy động, hay hôm khác tĩnh, Năm nay phải, biết trước đây mê. Đài cao trăng lạnh, hoa gầy quá, Vách núi mưa dầm, cỏ tốt ghê!
Mộng thấy trượng nhân cười hỏi tớ: Sao ngươi chẳng chịu lắng lòng đi?
138.
6.
一別燕京遠敝廬幾囘南望憶琴書心清湘水長天共骨瘐衡山太古如潔抹雪堤畱月白密籠煙樹補秋疎閒觀不盡風光好來興仙槎樂有餘
Nhất biệt Yên kinh viễn tệ lư, Kỵ hồi nam vọng ức cầm thư.
Tâm thanh Tương thuỵ trường thiên cộng, Cốt sấu Hoành sơn thái cổ như.
Khiết mạt tuyết đê lưu nguyệt bạch, Mật lung yên thụ bổ thu sơ.
Nhàn quan bất tận phong quang hảo, Lai hứng tiên tra lạc hữu dư.
Dịch nghĩa:
Vừa từ biệt Yên kinh, rời xa căn nhà nát, Mấy lần ngoảnh nhìn phương nam, nhớ đàn sách.
Tấm lòng trong sạch tựa dòng sông Tương chảy mãi với trời,
Thân gầy như Hoành sơn thời thái cổ.
Đê phủ tuyết trắng như để giữ ánh sáng của trăng,
Khói phủ dày ở hàng cây như thêm cho vẻ tiêu sơ của mùa thu.
Nhìn xem cảnh sắc vô cùng tươi tốt,
Hứng thú đến với thuyền sứ, niềm vui có thừa.
Dịch thơ:
Yên kinh từ giã, biệt nhà lan, Ngóng mãi trời Nam nhớ sách đàn. Thân ốm Hoành sơn dường thái cổ,
Lòng thanh Tương thuỷ với trời hoang. Bờ đê tuyết phủ, lưu trăng sáng,
Cây cối thu về, vá khói loang.
Bát ngát cảnh quang ta ngắm thoả, Bè tiên hứng đến thú vui tràn!
139.
7.
萬里風塵一腐儒謀身却笑杞人愚遊窮天外烏何有思入雲中淡欲無草木尙知分楚越衣冠不覺變唐虞休論世事多翻覆喜得歸帆酒自娛
Vạn lý phong trần nhất hủ nho, Mưu thân khước tiếu Kỵ nhân ngu1. Du cùng thiên ngoại ô hà hữu?
Tứ nhập vân trung đạm dục vô. Thảo mộc thượng tri phân Sở Việt, Y quan bất giác biến Đường Ngu. Hưu luân thế sự đa phiên phúc,
Hỵ đắc quy phàm tửu tự ngu.
Dịch nghĩa:
Gió bụi muôn dặm đường một lão hủ nho, Cười chuyện lo cho thân mình như người ngu nước Kỵ.
Đi khắp ngoài trời đất, đâu là quê hương?
Tứ vút vào mây, lòng thanh như chẳng còn ham muốn.
Đến cỏ cây còn biết phân ranh giới đất Sở với đất Việt,
Áo mão chẳng hay đã thành thuở Nghiêu Thuấn.
Đừng bàn việc đời nhiều sự tráo trở, Mừng được trở về có rượu lấy làm vui. Dịch thơ:
Một lão nho tồi giữa gió sương,
Cười thân người Kỷ ngốc như thường. Mây ngàn gửi tứ, lòng thanh thản, Trời đất dạo cùng, đâu cố hương?
Áo mão nào hay thời thịnh trị, Cỏ cây còn biết cõi biên cương. Sự đời tráo trở xin đừng nói,
Mừng đặng ngày về rượu ngát hương.
140.
8.
1 Kỵ nhân ngu: người nước Kỵ ngu. Xuất ý câu Kỵ nhân ưu thiên (người Kỵ lo trời) trong sách Liệt tử. Có người nước Kỵ cứ lo trời sập không biết mình sẽ sống ở đâu. Ở đây Ngô Nhân Tĩnh có ý cho rằng mình không có ý lo cho thân mình, đó chỉ là lo chuyện vô ích.
玉 樹 凋 零 葉 滿 溪惱 人 愁 色 晚 寒 凄百 年 心 聽 尼 山 鳳半 夜 鄰 鳴 祖 逖 雞去 國 客 愁 爲 有 命離 鄉 詩 愛 作 無 題吟 成 忽 憶 池 塘 柳月 色 溶 溶 院 落 西
Ngọc thụ điêu linh diệp mãn khê,1 Não nhân sầu sắc vãn hàn thê.
Bách niên tâm thính Ni Sơn phụng,2 Bán dạ lân minh Tổ Địch kê.3
Khứ quốc khách sầu vi hữu mệnh, Li hương thi ái tác vô đề.
Ngâm thành hốt ức trì đường liễu, Nguyệt sắc dung dung viện lạc tây. Dịch nghĩa:
Cây hoè điêu tàn, lá rụng đầy khe,
Trời chiều lạnh lẽo khiến lòng người sầu theo. Trăm năm lòng lắng nghe tiếng phụng nơi núi Ni,
Nửa đêm nghe tiếng gà Tổ Địch gáy ở nhà bên.
Rời đất nước lòng khách sầu, vì có mệnh phải tuân,
Xa quê hương nên thích làm thơ không đề. Ngâm thơ xong chợt nhớ liễu bờ ao,
Ánh trăng sáng vằng vặc lặn xuống trời tây.
Dịch thơ:
Ngọc thụ điêu tàn, lá ngập khe, Chiều thu lạnh lẽo, xót xa hề! Trăm năm lòng lắng Ni Sơn phụng,
Khuya khoắt dường vang Tổ Địch kê. Rời nước khách sầu, vì có mạng,
Xa quê thơ thích viết vô đề.
Ngâm xong chợt nhớ trì đường liễu, Bóng nguyệt bàng hoàng xế cõi tê (tây).
141.
9.
羨爾山居分外佳春風秋月滿衿懷慣從天際栖雲鶴
1 Ngọc thụ: cây ngọc. Theo Từ nguyên, ngọc thụ tức cây hoè. Thời nhà Tuỳ, nhà Đường đều gọi cây hoè là ngọc thụ.
2 Ni Sơn: núi Ni, cũng chính là gò Ni (Ni Khâu), núi ở cách
huyện Khúc Phụ, Sơn Đông về phía đông nam sáu mươi dặm. Thúc Lương Ngột cùng Nhan thị sinh Khổng Tử ở Ni Khâu nên đặt tên cho ông là Khâu, tự là Trọng Ni.
3 Tổ Địch: người đất Phạm Dương, đời Tấn, tự Sĩ Nhã, thời Nguyên đế, làm thứ sử Dự Châu, lúc vượt sông gõ chèo thề
rằng: không lấy được Trung Nguyên thề không trở lại sông này. Bộ binh đánh nhau cầm cự với quân Thạch Lặc, từ sông Hoàng Hà trở xuống phía nam đều là đất thuộc nhà Tấn. Ngày ông mất, quan quân Dự Châu để tang ông như bậc cha mẹ.
不見人間當道豺四壁未曾留耳聽十年今始得心齋亭舟坐愛閒中趣古岸楓紅水綠涯
Tiện nhĩ sơn cư phân ngoại giai,
Xuân phong thu nguyệt mãn khâm hoài. Quán tùng thiên tế thê vân hạc,
Bất kiến nhân gian đáng đạo sài.4
Tứ bích vị tằng lưu nhĩ thính, Thập niên kim thuỵ đắc tâm trai. Đình chu toạ ái nhàn trung thú,
Cổ ngạn phong hồng thuỵ lục nhai.
Dịch nghĩa:
Muốn được ở trong núi non tách biệt với ngoài trần thế,
Gió xuân, trăng thu căng đầy ngực áo.
Cánh hạc bay suốt cả vùng trời đỗ ở chân mây, Chẳng thấy loài lang sói cản đường giữa nhân gian nữa.
Bốn vách chưa từng để tai vào nghe,
Mười năm rồi nay mới được lòng thanh tịnh. Trong thuyền thích ngồi trong yên lặng,
Bên bờ xưa phong đỏ rợp, dòng sông nhuộm xanh cả chân trời.
Dịch thơ:
Lòng vui non núi ẩn cư thay, Xuân gió, thu trăng, ngực áo đầy. Bát ngát trời mây vui cánh hạc, Bao la trần thế, sạch lang sài.
Mười năm mới được tâm thanh tịnh, Bốn vách chưa từng để lọt tai.
Thuyền đỗ, thích ngồi trong vắng lặng, Bờ xưa phong đỏ, nước xanh mây.
142.
10.
歸棹茫然遠客來滿湖風月作良媒煙波尚待公侯釣舟楫當爲宰相才開盡鄉心秋後菊夢回春色臘前梅別離自古多如我莫聽城頭畫角哀
Quy trạo mang nhiên viễn khách lai,
Mãn hồ phong nguyệt tác lương mai (môi). Yên ba thượng đãi công hầu điếu,
Chu tiếp đương vi tể tướng tài.
4 Đáng đạo sài: Theo Từ nguyên có nghĩa là người cầm quyền bính. Sách Hậu Hán thư có câu: “Sài lang đáng đạo, an vấn hồ li” (sói chắn đường, sao hỏi chồn?) chỉ việc Lương Ký chấp chính.