Hoàn Thiện Các Công Cụ Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ


chiều nên việc xác định và công bố mục tiêu trọng tâm trong từng thời kỳ cần làm thường xuyên và nhất quán nhằm định hướng hoạt động điều hành CSTT, từ đó phản ánh tới hành vi sản xuất, tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Trên cơ sở đó, các hoạt động của từng chính sách cần có sự phối hợp nhằm đạt được mục tiêu trong từng thời kỳ mà không phương hại đến mục tiêu dài hạn.

Khi xác định một vùng lạm phát mục tiêu cần đạt được, Ngân hàng nước CHDCND Lào cần thông báo rộng rãi đến các cơ quan ban ngành, đến công chúng mức lạm phát đó, và từng bước thực hiện nó. Khi đó, tính minh bạch trong việc điều hành chính sách, minh bạch trong mục tiêu, minh bạch trong hoạt động và minh bạch trong việc đánh giá triển vọng của hoạt động kinh tế và lạm phát từ quan điểm của Ngân hàng nước CHDCND Lào sẽ được nâng cao. Một khi Ngân hàng nước CHDCND Lào đạt được những mục tiêu của mình đặt tra thì lúc đó vai trò cũng như uy tín của Ngân hàng nước CHDCND Lào sẽ được củng cố vững chắc.

Hướng tới việc thực hiện một vùng lạm phát mục tiêu rõ ràng trong trung hạn còn có thể giúp cải thiện hiệu quả của CSTT bằng cách neo giữ được kỳ vọng lạm phát của công chúng, qua đó cải hiện hiệu quả truyền dẫn CSTT. Để thực hiện được điều này, Ngân hàng nước CHDCND Lào cần phải cải thiện phương pháp thống kê tiền tệ, xem xét rà soát lại các chỉ tiêu thống kê hiện tại, loại bỏ các chỉ tiêu không cần thiết, bổ sung những chỉ tiêu mới phù hợp với tình hình mới phát sinh và thông lệ quốc tế. Dữ liệu của hệ thống thông tin này sẽ là cơ sở để Ngân hàng nước CHDCND Lào không chỉ nắm bắt được tình hình thực tế mà còn dự báo được diễn biến của giá cả cũng như dự báo thanh khoản và dòng ngoại hối để có các chính sách điều chỉnh hiệu quả, phù hợp.

4.2.1.3. Hoàn thiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ

Việc hoàn thiện các công cụ điều hành CSTT đóng vai trò quan trọng trong khả năng tác động của NHTW vào các mục tiêu hoạt động, trước khi ảnh hưởng tới mục tiêu trung gian, và mục tiêu cuối cùng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các cú sốc trong nước lẫn ngoài nước sẽ tăng lên về tần suất và mức độ ảnh hưởng. Do vậy, các công cụ của CSTT phải thực sự hiệu quả để bảo đảm tính linh hoạt cũng như hiệu quả tác động. Theo đó, các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu, tái cấp vốn, hoán đổi tiền tệ… sẽ là những công cụ chủ đạo trong điều hành CSTT của Ngân hàng CHDCND Lào.


Thứ nhất, hoàn thiện các công cụ lãi suất điều hành

Trước mắt Ngân hàng nước CHDCND Lào phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTW của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.

Cụ thể, trong trung hạn, khi thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ hơn, Ngân hàng nước CHDCND Lào nên xem xét xác định lãi suất mục tiêu dựa trên quy tắc Taylor mà hiện nay đang được áp dụng tại Mỹ. Lãi suất lựa chọn có thể là lãi suất qua đêm liên ngân hàng. Trong thời gian qua thị trường liên ngân hàng của Lào đã có sự phát triển nhất định về doanh số giao dịch, phương thức giao dịch, chủ thể tham gia thị trường. Những biến động của lãi suất liên ngân hàng phản ánh chính xác quan hệ cung cầu vốn giữa các ngân hàng trong từng thời điểm. Thị trường liên ngân hàng là nơi phản ánh cũng như truyền dẫn tác động của CSTT tới mức độ sẵn có về vốn cũng như chi phí về vốn của các ngân hàng. Lãi suất qua đêm liên ngân hàng có đặc điểm là phản ánh khá rõ cung cầu về vốn khả dụng, đồng thời nếu NHTW tác động được tới mức lãi suất này thì có thể phần nào chi phối lãi suất trên thị trường tín dụng giữa các ngân hàng và khách hàng. Công thức Taylor theo dõi sự biến đổi thực tế của lãi suất mục tiêu trong mối liên hệ với lạm phát, sản lượng và lãi suất thực như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

Lãi suất mục tiêu = lãi suất thực dài hạn + lạm phát hiện tại

+ ½ (chênh lệch lạm phát) + ½ (chênh lệch sản lượng)

Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 19

Trong đó: Chênh lệch lạm phát = lạm phát hiện tại - lạm phát mục tiêu (%); Chênh lệch sản lượng = GDP hiện tại - GDP tiềm năng.

Nếu lạm phát hiện tại bằng lạm phát mục tiêu và không có chênh lệch sản lượng, thì mức lãi suất mục tiêu bằng mức lạm phát (hiện tại hoặc mục tiêu) cộng với lãi suất thực dài hạn. Ngược lại, khi lạm phát tăng cao hơn mức mục tiêu thì CSTT sẽ phản ứng lại bằng cách tăng lãi suất; trong khi đó, sản lượng giảm xuống thấp hơn mức mục tiêu thì CSTT sẽ phản ứng bằng cách điều chỉnh mức lãi suất giảm xuống.


Hệ số đứng trước các yếu tố chênh lệch lạm phát và sản lượng phụ thuộc vào mức độ quan trọng, hay mức độ ưu tiên đối với các mục tiêu của CSTT (về tăng trưởng hay ổn định giá cả) và mức độ nhạy cảm của nền kinh tế trước sự thay đổi lãi suất. Nếu Ngân hàng nước CHDCND Lào tập trung vào kiểm soát lạm phát thì hệ số đứng trước chênh lệch lạm phát sẽ lớn hơn hệ số đứng trước chênh lệch sản lượng, và ngược lại. Để áp dụng công thức Taylor, Ngân hàng nước CHDCND Lào cần xác định được bốn yếu tố: (1) hằng số - lãi suất thực dài hạn; (2) tỷ lệ lạm phát;

(3) mức chênh lệch lạm phát; và (4) mức chênh lệch sản lượng. Lãi suất thực dài hạn không có rủi ro và thường xoay quanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Công thức Taylor chỉ ra rằng NHTW không chỉ quan tâm đến việc giữ cho lạm phát trong tầm kiểm soát mà còn phải tối thiểu hoá những biến động của sản lượng so với mức sản lượng tiềm năng trong chu kỳ kinh doanh.

Trên cơ sở lãi suất mục tiêu được xác định, Ngân hàng nước CHDCND Lào sẽ sử dụng các công cụ gián tiếp trong điều hành CSTT như nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn để đạt mức lãi suất mục tiêu từ đó chi phối lãi suất thị trường. Trên cơ sở mức lãi suất mục tiêu, Ngân hàng CHDCND hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm, và đặc biệt là lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường cũng như các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Như vậy, lượng tiền cung ứng sẽ được xác định một khách quan trên cơ sở tình hình thị trường cũng như có yếu tổ chủ quan khi Ngân hàng CHDCND muốn điều tiết để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.

Để lãi suất tái cấp vốn và chiết khấu phát huy đúng vai trò trong định hướng lãi suất thị trường thì Ngân hàng nước CHDCND Lào cần xem xét mức độ chênh lệch giữa hai lãi suất này với mặt bằng lãi suất cho vay và huy động trên thị trường. Nếu như các mức lãi suất này cho dù được tăng lên để kiểm soát lượng cung tiền, kiềm chế lạm phát nhưng vẫn mức thấp hơn so với lãi suất cho vay của các ngân hàng thì hiệu quả của CSTT sẽ bị giảm đi. Nhiều NHTM sẽ vẫn không hạn chế cấp tín dụng do vẫn vẫn có thể duy trì mức lãi suất cho vay hoặc tăng mức lãi suất cho vay để hưởng chênh lệch lãi suất, khiến cho hiệu lực của CSTT bị giảm đi đáng kể. Giải pháp đề xuất là Ngân hàng nước CHDCND Lào cần phải điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn luôn sát với mặt bằng lãi suất trên thị trường để có thể tác động tới hành vi cấp tín dụng của các NHTM.


Thứ hai, hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở

Ngân hàng nước CHDCND Lào cần phát hành nhiều hơn các chứng khoán của NHTW nhằm tạo thêm sản phẩm cũng như đa dạng hoá các hàng hoá giao dịch trên thị trường mở nhằm tạo những cơ hội tốt cho các thành viên trong việc lựa chọn giấy tờ có giá để tham gia giao dịch. Hơn nữa, Ngân hàng nước CHDCND Lào có thể xem xét nghiên cứu để mở rộng các loại giấy tờ giao dịch trên thị trường mở như thương phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng, trái phiếu công ty,… đủ điều kiện giao dịch. Ngân hàng nước CHDCND Lào nên yêu cầu Bộ Tài chính tăng cường phát hành các loại tín phiếu có thời hạn đa dạng từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng…với lãi suất linh hoạt, phản ánh sát thực lãi suất thị trường để khuyến khích các NHTM, các công ty tài chính phi ngân hàng sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi, đồng thời làm phong phú các loại hàng hoá được giao dịch. Tuy nhiên, trong trước mặt, việc đầu tiên cần làm là Ngân hàng nước CHDCND Lào tiếp tục phát hành tín phiếu NHTW để tạo điều kiện cho các thành viên có thêm nguồn đầu tư và làm phong phú thêm sản phẩm trên thị trường mở. Đối với phương thức đấu thầu và xét thầu, Ngân hàng nước CHDCND Lào sử dụng cả hai phương thức đấu thầu, nhưng chủ yếu xét thầu với lãi suất thống nhất tạo mặt bằng lãi suất ổn định, đưa ra những tín hiệu để định hướng thị trường. Tuy nhiên, nên sử dụng cả hai phương thức đấu thầu và hai phương thức xét thầu một cách linh hoạt, nhằm tăng mức độ cạnh tranh, tạo thuận lợi cho các thành viên khi tham gia vào thị trường [37].

Ngân hàng nước CHDCND Lào cần nâng cao năng lực dự báo vốn khả dụng do kết quả dự báo có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh chính sách nhằm đạt được mục tiêu điều hành của CSTT. Điều hành nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt cao nên cần phải đặt trong sự phối hợp với các công cụ điều hành khác của CSTT đặc biệt là hỗ trợ thanh khoản cũng như can thiệp trung hòa các nghiệp vụ CSTT quan đến ngoại tệ của Ngân hàng CHDCND Lào.

Trong ngắn hạn, Ngân hàng nước CHDCND Lào có thể sử dụng các công cụ CSTT nhằm thực hiện các mục tiêu trong điều kiện tự do hoá lãi suất chưa đạt được. Về dài hạn, cần tiến đến việc loại bỏ hoàn toàn các quy định mang tính hành chính nhằm thực hiện tự do hoá lãi suất. Khi đó, các NHTM được quyền tự quyết định lãi suất huy động và cho vay trên cơ sở biến động cung cầu của thị trường.


Thứ ba, hoàn thiện công cụ dự trữ bắt buộc

Khi các công cụ gián tiếp được vận hành hiệu quả trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng thì công cụ dự trữ bắt buộc cần được điều hành theo hướng linh hoạt và hạ thấp dần vai trò điều tiết lượng tiền cung ứng. Thay vào đó, công cụ dự trữ bắt buộc chỉ thuần tuý đóng vai trò hỗ trợ các NHTM gặp rủi ro thanh khoản nghiêm trọng. Hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ góp phần làm giảm chi phí huy động vốn của các NHTM, tạo điều kiện hạ mặt bằng lãi suất, từ đó khuyến khích các giao dịch vốn trên thị trường.

Ngân hàng nước CHDCND Lào cần tiếp tục duy trì mức độ chênh lệch tỷ lệ dự trữ bắt buộc nội tệ và ngoại tệ để duy trì lượng ngoại tệ nhằm phòng chống trước các đợt sụt giảm ngoại tệ, có thể dẫn tới trường hợp khủng hoảng ngoại hối. Biện pháp này cũng có tác dụng làm giảm tình trạng đô la hoá đang ở mức cao tại Lào.

4.2.2. Nhóm giải pháp về nghiệp vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào

4.2.2.1. Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với những diễn biến vĩ mô theo hướng ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế

Thứ nhất, điều hành CSTT chủ động và linh hoạt trước trước những diễn biến vĩ mô. Việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ khiến Lào phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trên cả thị trường hàng hoá lẫn thị trường tài chính. Từ sau khủng hoảng tiền tệ 1997 và khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế 2007, nguồn vốn FDI chảy vào CHDCND Lào đã tăng mạnh nhưng cũng cho thấy có xu hướng biến động mạnh, nhạy cảm với diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước.

Dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng sẽ làm tăng cung ngoại tệ, làm giá đồng nội tệ giảm xuống, ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu. Cho dù hoạt động xuất khẩu tài nguyên, vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu, ít nhạy cảm với biến động tỷ giá nhưng thực trạng này diễn ra liên tiếp sẽ có ảnh hưởng xấu tới cán cân thương mại của Lào. Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, sự hình thành, phát triển của thị trường chứng khoán, và các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu của các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Nếu Ngân hàng nước CHDCND Lào mua ngoại tệ nhằm duy trì tỷ giá, hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu cũng như gia tăng dự trữ ngoại hối đang ở mức thấp hiện nay, thì lượng


cung tiền nội tệ trong nền kinh tế tăng lên sẽ tạo áp lực gây ra lạm phát do lạm phát có xu hướng nhạy cảm với biến động của đồng nội tệ hơn đồng ngoại tệ trong nền kinh tế bị đô la hóa.

Như vậy, Ngân hàng nước CHDCND Lào phải thực thi các biện pháp can thiệp trung hoà kịp thời với liều lượng phù hợp. Nếu can thiệp chậm và không đủ liều lượng thì các NHTM sẽ nhanh chóng đưa lượng tiền nội tệ vào lưu thông, gây ra sự gia tăng cung tiền nội tệ đột ngột, tiềm ẩn lạm phát cao trong tương lai.

Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ tín dụng cả về lượng lẫn về chất đóng vai trò tiên quyết trong ổn định thị trường tiền tệ và thị trường tài chính. Mặc dù tỷ lệ tín dụng trên GDP của CHDCND Lào ở mức tương đối thấp so với các quốc gia khác trong khu vực nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng của CHDCND Lào luôn ở mức cao trong giai đoạn gần đây. Điều này cho thấy sự phát triển không ngừng của hệ thống NHTM với sự cạnh tranh gia tăng không chỉ đến từ các ngân hàng truyền thống mà còn từ nhiều ngân hàng mới thành lập. Việc nhiều ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện được thành lập trong thời gian tới sẽ khiến cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần trên thị trường tín dụng diễn ra quyết liệt, nhiều ngân hàng sẽ xem nhẹ tiêu chí chất lượng để tập trung vào mở rộng quy mô và lợi nhuận. Hiện nay, tỷ lệ huy động trên cho vay của các ngân hàng tại CHDCND Lào đã ở mức hơn 90%, áp lực huy động vốn đã xuất hiện rõ rệt và rủi ro thanh khoản sẽ trở nên rõ ràng hơn khi tỷ lệ này tiệm cận ngưỡng 100%.

Hơn nữa, mặt bằng lãi suất thị trường bị đẩy lên cao đặt ra nghi ngờ về mức độ hiệu quả của các dự án được chấp thuận cũng như khả năng thanh toán các khoản nợ của nhiều dự án. Tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp hiện nay có thể xuất phát từ nguyên nhân dư nợ tín dụng tăng quá nhanh và hiện trạng kinh tế vĩ mô vẫn ổn định; trường hợp nền kinh tế đột ngột rơi vào suy thoái, tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng lên đáng kể trong khi lượng vốn chủ sở hữu của các NHTM nhà nước và ngân hàng liên doanh lại ở mức khá thấp. Ngân hàng nước CHDCND Lào cần thực thi các biện pháp kiểm soát hiệu quả tăng trưởng tín dụng về cả lượng lẫn về chất bao gồm tỷ lệ nợ xấu, cơ cấu dư nợ theo mục đích sử dụng vốn, ngành nghề, theo loại tiền tệ, và theo thời hạn.


Thứ ba, cần phải tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ và việc điều hành CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đặc biệt là CSTK, kiểm soát hiệu quả khối lượng tiền và các luồng tiền trong nền kinh tế. Tăng cường khả năng và mức độ bao quát của NHTW trong việc quản lý, giám sát các giao dịch ngoại hối trong nước và quốc tế, thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính.

Thứ tư, thực hiện các biện pháp giảm độ trễ trong điều hành CSTT của Ngân hàng CHDCND Lào. Độ trễ trong điều hành CSTT tại các quốc gia đang phát triển, trong đó có Lào, là khá lớn thể hiện ở cả ba khâu, từ khâu xác định các vấn đề của nền kinh tế đòi hỏi cần có sự can thiệp chính sách cho đến khâu xây dựng và thông qua CSTT phù hợp, và đến khâu cuối cùng là từ lúc chính sách được thực thi cho tới khi phát huy tác động. Không chỉ làm giảm hiệu quả của chính sách, mà việc ban hành chính sách chậm có thể dẫn tới tình trạng phản tác dụng do vào thời điểm CSTT phát huy hiệu lực thì nền kinh tế đã trở lại vị trí ban đầu nhờ cơ chế tự điều chỉnh trong nền kinh tế.

Để giảm thời gian trễ trong điều hành CSTT cần phải tăng cường hiệu quả của công tác thu thập số liệu và xây dựng các mô hình dự báo các chỉ tiêu vĩ mô. Trên cơ sở thông tin và dự báo tốt, Ngân hàng nước CHDCND Lào có thể sớm nhận biết được những vấn đề tiềm ẩn của nền kinh tế để nhanh chóng xây dựng và bàn hành các giải pháp phù hợp. Cụ thể, Ngân hàng nước CHDCND Lào cần thành lập vụ Dự báo và thống kê tiền tệ với chức năng thu thập, phân tích, và dự báo cáo chỉ tiêu vĩ mô cũng như hoạt động hệ thống ngân hàng, để tham mưu cho các vụ khác cũng như ban lãnh đạo NHTW trong điều hành CSTT. Vụ Dự báo và thống kê tiền tệ cũng cần xây dựng mô hình định lượng trong công tác dự báo vĩ mô thông qua các mô hình được áp dụng phổ biến hiện nay là mô hình ARIMA, VAR, SVAR, và VECM. Ví dụ, các mô hình dự báo lạm phát tốt đóng vai trò quan trọng trong việc sớm đưa ra được các biện pháp can thiệp vào thị trường, hạn chế tối đa việc khi chính sách được ban hành thì lạm phát đã ở mức cao hoặc phải sử dụng liều lượng mạnh, ảnh hưởng tiêu cực tới các hoạt động của nền kinh tế.


Đối với việc giảm thời gian từ khi ban hành chính sách đến khi chính sách tác động tới các mục tiêu thì cần phải tăng thực hiện các biện pháp để tăng cường mức độ nhạy cảm của đầu tư và tiêu dùng với lãi suất, mức độ nhạy cảm của cầu tiền đối với lãi suất và cơ chế tăng cường hiệu quả của CSTT thông qua việc lành mạnh hoá tình hình tài chính hệ thống các NHTM và phát triển thị trường liên ngân hàng. Do điều hành CSTT có độ trễ nhất định từ khi ban hành chính sách đến khi chính sách thực sự phát huy hiệu quả (nên thực hiện các chính sách cần phải có sự cam kết thực hiện cũng như thực hiện một cách kiên định trong thời gian dài tương ứng. Nhờ vậy mà các chủ thể trong nền kinh tế nhận thức được mục đích và hành vi của NHTW, từ đó điều chỉnh các hành vi của mình trong điều kiện mới, góp phần giúp CSTT phát huy hiệu quả nhanh hơn. Ngân hàng nước CHDCND Lào cũng cần nghiên cứu và xây dựng các mô hình kinh tế lượng về cơ chế truyền dẫn tiền tệ nhằm tiến hành phân tích và hoạch định CSTT. Sử dụng kết quả của các mô hình này giúp đo lường được mức độ phản ứng của của các mục tiêu trung gian cũng như mục tiêu cuối cùng trước những điều chỉnh của các công cụ CSTT đồng thời khoảng thời gian trễ của các phản ứng này.

Về phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường tiền tệ liên ngân hàng, đặc biệt là thị trường các khoản vay qua đêm, đóng vai trò quan trọng trong điều hành CSTT của bất kỳ NHTW nào. Ngoài việc là điểm khởi đầu cho quá trình truyền tải CSTT thì các mức lãi suất liên ngân hàng, đặc biệt là lãi suất qua đêm, là chỉ báo quan trọng cho điều hành CSTT và cũng đóng vai trò thông báo với thị trường định hướng điều hành CSTT. Đối với các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ liên ngân hàng có vai trò phân bổ thanh khoản từ phía Ngân hàng nước CHDCND Lào cũng như từ thị trường giữa các tổ chức tín dụng, duy trì sự ổn định thanh khoản cho hệ thống. Có ba điểm chính cần phải tập trung nghiên cứu đối với Ngân hàng nước CHDCND Lào hiện nay là xây dựng một bộ khung pháp lý điều tiết các hoạt động trên thị trường này, xây dựng bộ tiêu chí cho phép các tổ chức thoả mãn điều kiện mới được tham gia vào thị trường tiền tệ liên ngân hàng, và cuối cùng phát hành những giấy tờ có giá nhằm tăng số lượng các hàng hoá được giao dịch trên thị trường này.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/04/2022