Định Hướng Phát Triển Kinh Tế Và Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ Của Nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào Đến Năm 2020


lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Về nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở chưa định hướng được rõ ràng tới lãi suất thị trường liên ngân hàng. Tác động của nghiệp vụ thị trường mở tới lượng vốn khả dụng của các ngân hàng là tương đối hạn chế khi mà nghiệp vụ này chưa phát triển về cả cơ chế lẫn lượng hàng hoá sử dụng. Giấy tờ có giá chưa đa dạng về kỳ hạn và chủng loại, dẫn đến thực tế Ngân hàng nước CHDCDN Lào phải phát hành tín phiếu để bổ sung hàng hoá cho thị trường, hạn chế khả năng can thiệp và làm tăng chi phí can thiệp.

Vai trò điều tiết lãi suất của Ngân hàng nước CHDCND Lào chủ yếu thông qua lãi suất chiết khấu và tác động đến lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM trong khi điều tiết thông qua lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đối với lãi suất thị trường còn hạn chế. Hiệu quả truyền dẫn điều hành CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào thông qua thị trường tiền tệ chưa đạt được do sự kém phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng. Khi các kênh truyền dẫn tác động của CSTT chưa hoàn thiện đã làm hạn chế hiệu quả của các công cụ CSTT. Mặc dù các nghiệp vụ can thiệp của Ngân hàng nước CHDCND Lào đã diễn ra thường xuyên hơn và tần suất, giá trị các giao dịch đã được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp và số lượng NHTM tham gia vào các nghiệp vụ này không nhiều và chỉ tập trung vào một số đối tượng. Cả nghiệp vụ chiết khấu và thị trường mở chủ yếu chỉ có sự tham gia của các NHTM lớn, còn NHTM nhỏ lại ít tham gia các nghiệp vụ này, làm hạn chế hiệu quả điều tiết thị trường. Hàng hoá của thị trường mở tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa đa dạng khiến cho không gian điều hành CSTT thông qua công cụ này còn hạn chế. Hơn nữa, công tác dự báo vốn khả dụng của các NHTM chưa đáp ứng được yêu cầu nên việc điều tiết thông qua nghiệp vụ thị trường mở chưa thực sự hiệu quả.

Ngoài ra, thị trường vốn, trong đó thị trường trái phiếu doanh nghiệp gần như không phát triển, thị trường chứng khoán mới hình thành, thị trường bất động sản thiếu sự quản lý của Nhà nước, đã khiến cho quá trình truyền dẫn CSTT qua kênh lãi suất, của cải, và giá cổ phiếu gần như không phát huy được tác dụng. Truyền dẫn CSTT gần như chỉ phụ thuộc vào kênh tín dụng làm giảm chiều sâu của quá trình truyền dẫn CSTT cũng như đặt áp lực lên hoạt động cấp tín dụng của hệ thống


NHTM còn nhiều yếu kém về năng lực tài chính, quản trị rủi ro.

Nhóm nguyên nhân thứ hai, mức độ độc lập của Ngân hàng nước CHDCND Lào tuy đã được cải thiện những vẫn ở mức thấp

Tại Lào, NHTW là cơ quan của Chính phủ và Thống đốc là thành viên Chính phủ, có nhiệm vụ chính là điều hành CSTT, một bộ phận của chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô thường rất đa dạng khi liên quan đến đầu tư, thương mại, tài chính, tiền tệ... và tương ứng mỗi chính sách kinh tế vĩ mô liên quan lại được triển khai với những thời gian khác nhau và có mức độ tác động khác nhau đến nền kinh tế. Tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể mà Chính phủ phối hợp hài hoà các chính sách, đôi lúc lại chú trọng chính sách này hơn chính sách kia và ngược lại. Vì vậy, có những thời điểm việc thực hiện mục tiêu của CSTT có thể không được đảm bảo do Ngân hàng nước CHDCND Lào phải thay đổi hướng điều hành CSTT, phải tạm thời "hi sinh" mục tiêu ổn định giá cả để thực hiện các mục tiêu do Chính phủ đề ra như tăng trưởng kinh tế.

Về quá trình thực hiện CSTT, Ngân hàng nước CHDCND Lào xây dựng mục tiêu và định hướng CSTT, trình Chính phủ Lào xem xét, sau đó trình ra Quốc hội, sau khi Quốc hội thông qua thì Ngân hàng nước CHDCND Lào là cơ quan trực tiếp điều hành. Và trong quá trình điều hành CSTT, Chính phủ vẫn có những chỉ đạo trực tiếp, ra các quyết định cụ thể, hoặc Ngân hàng nước CHDCND Lào vẫn phải báo cáo, xin ý kiến với những quyết định cụ thể về thay đổi, điều chỉnh những công cụ của CSTT, cụ thể như khối lượng tiền cung ứng, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất hay tỷ giá, thay đổi trần lãi suất… [31].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

Các quy định trên cho thấy tính độc lập của Ngân hàng nước CHDCND Lào mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp, nhất là trong xây dựng và thực thi CSTT. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến việc nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng nước CHDCND Lào với vai trò là NHTW trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự không độc lập trong điều hành CSTT làm tăng độ trễ từ việc ban hành các chính sách nhằm điều tiết thị trường, giảm tính kịp thời và hiệu quả của chính sách.

CSTT được Ngân hàng nước CHDCND Lào sử dụng để tài trợ cho các khoản chi ngoài ngân sách cho các dự án đầu tư của chính quyền địa phương trong một thời gian dài. Tính chung các khoản vay của Ngân hàng nước CHDCND Lào

Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - 17


cho chính quyền địa phương đã chiếm tới ¾ các khoản nợ trong nước, và ¼ còn lại là các khoản phát hành trái phiếu của Chính phủ để cấp vốn cho các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước. Việc tài trợ cho các khoản chi ngân sách sẽ khiến cho mức độ độc lập của CSTT bị suy giảm, tiềm ẩn rủi ro đối với chất lượng các dự án đầu tư được tài trợ, đồng thời làm mức nợ công tăng dần tới ngưỡng cảnh báo.

Nhóm nghiên nhân thứ ba, tình trạng đô la hoá tuy đã giảm những vẫn ở mức cao, ảnh hưởng tới công tác điều hành CSTT và ổn định tiền tệ quốc gia

Mặc dù tỷ lệ tiền gửi bằng nội tệ trên tổng tiền gửi đã tăng trong thời gian qua nhưng tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ vẫn còn ở mức rất cao. Không chỉ có vậy, tình trạng đô la hoá tiền mặt tuy không được thống kê nhưng diễn ra khá phổ biến khi Chính phủ và Ngân hàng nước CHDCND Lào không triển khai quyết liệt các biện pháp kiểm soát các hoạt động thanh toán bằng ngoại tệ. Điều này là hệ quả của giai đoạn bất ổn kinh tế vĩ mô trước đây khi nền kinh tế CHDCND Lào xảy ra tình trạng siêu lạm phát và đồng nội tệ đã phải phá giá rất mạnh. Ngoài ra, việc thiếu kiên quyết trong việc xử lý tình trạng đô la hoá đã khiến cho đô la hoá ngày càng phổ biến và trở thành một vấn đề nan giải cho điều hành CSTT của Lào.

Một là: tình trạng đô la hoá cao khiến CSTT không phát huy hết hiệu quả thực thi do nền kinh tế trở nên dễ tổn thương hơn với những biến động trong tỷ lệ lạm phát và thay đổi của tỷ giá hối đoái. Điều này là do cầu tiền nội địa sẽ nhạy cảm hơn với những thay đổi của lãi suất, chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền, bên cạnh đó cầu tiền nội địa còn nhạy cảm với cả lãi suất đối với đồng ngoại tệ. Vì thế, co giãn của cầu tiền theo lãi suất sẽ cao hơn trong một nền kinh tế có tình trạng đô la hoá cao, dẫn tới tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm hơn với các biến động trong nền kinh tế, làm gây ra những áp lực tới lạm phát.

Hai là: với tình trạng đô la hoá cao, Ngân hàng nước CHDCND Lào chỉ có thể kiểm soát được cung tiền nội tệ mà không thể kiểm soát hiệu quả được tổng cung tiền trong nền kinh tế, giảm khả năng ảnh hưởng đến lượng cung tiền ngoại tệ trong nền kinh tế (do lượng dự trữ ngoại hối mỏng). Khi đó chiều hướng và mức độ truyền dẫn của CSTT tới các biến số vĩ mô trở nên khó dự đoán hơn, gây khó khăn cho điều hành chính sách nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát của Ngân hàng nước CHDCND Lào. Hơn nữa, mức độ đô la hoá cao thể hiện niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ nói riêng và vào việc thực thi chính sách của nhà điều hành nói


chung vẫn còn chưa cao, gây khó khăn cho côn tác điều hành CSTT.

Nhóm nguyên nhân thứ tư, cơ chế điều hành tỷ giá chưa hoàn thiện

Cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng nước CHDCND Lào chưa có tính thị trường cao và chưa phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Sự thiếu minh bạch trong cơ chế điều hành tỷ giá là nguyên nhân dẫn tới những biến động khó kiểm soát về cung cầu ngoại tệ từ phía thị trường. Hơn nữa, tỷ giá hiện nay vẫn bị kiểm soát khá cứng nhắc khi thể hiện rõ xu hướng neo vào đồng USD, vốn dĩ liên tục biến động trên thị trường quốc tế từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - suy thoái kinh tế thế giới 2008.

Việc Ngân hàng nước CHDCND Lào duy trì tỷ giá trong một biên độ hẹp xung quanh mức tỷ giá mục tiêu nhưng lại không được điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ gây ra sự thiếu tin tưởng của công chúng vào sự ổn định của tỷ giá và khả năng can thiệp của CSTT. Quy mô dự trữ ngoại hối thấp, tình trạng đô la hoá cao, và các phương tiện để thực hiện sự kiểm soát tỷ giá chưa hoàn thiện khiến cho những cam kết về mục tiêu ổn định tỷ giá không có tính tin cậy cao.

Việc thực thi một cơ chế tỷ giá thiếu tính linh hoạt và thị trường trong một thời gian dài khiến cho thị trường ngoại tệ chậm phát triển. Các công cụ giao dịch ngoại tệ không có cơ hội phát triển khi hầu hết là các giao dịch giao ngay trong khi các chủ thể kinh tế cũng không quan tâm tới công tác phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới, thực trạng này đặt ra hai vấn đề cho chính sách tỷ giá.

Một là: những biến động kinh tế (về thương mại và đầu tư) tới nước CHDCND Lào ngày càng mạnh mẽ hơn, nhanh hơn và tần suất cao hơn nhưng với một cơ chế tỷ giá thiếu linh hoạt thì những tác động của các cú sốc từ bên ngoài sẽ khó có thể được giảm thiểu. Cơ chế tự điều chỉnh của tỷ giá và từ đó tác động tới hoạt động thương mại và đầu tư nhằm giúp nền kinh tế hướng về mức cân bằng bên trong và bên ngoài sẽ khó phát huy được tác dụng trong cơ chế tỷ giá hiện nay. Điều này tiềm ẩn nguy cơ tích luỹ những bất ổn kinh tế vĩ mô mặc dù các chỉ tiêu kinh tế - tiền tệ trong nước dường như khá ổn định so với bên ngoài. Tỷ giá lệch ra khỏi vị trí cân bằng trong thời gian dài thường tạo ra áp lực lớn đối với công tác điều hành tỷ giá của Ngân hàng nước CHDCND Lào và trong trường hợp buộc phải điều chỉnh tỷ giá, những hệ quả như mất lòng tin của công chúng, gia tăng gánh nặng nợ cho các chủ thể có nợ nước


ngoài, khuyến khích hành vi đầu cơ tỷ giá… là điều khó có thể tránh khỏi.

Hai là: các doanh nghiệp trong nền kinh tế Lào sẽ thiếu đi tính chủ động trong công tác phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Tham gia nhiều hơn vào các giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế trong bối cảnh tỷ giá biến động đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải có những chuẩn bị nhất định. Việc trì hoãn công tác phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà phụ thuộc vào cam kết của Ngân hàng nước CHDCND Lào về ổn định tỷ giá sẽ khiến thị trường ngoại tệ thiếu đi sự phát triển bền vững và năng lực đối phó với rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp Lào chậm được cải thiện.

Nhóm nguyên nhân thứ năm, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng chưa mạng hiệu quả, thiếu tương xứng với quy mô phát triển của hệ thống ngân hàng

Hiện nay, cơ sở cần thiết cho một hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng có hiệu quả tại hệ thống ngân hàng Lào chưa được bảo đảm. Nguyên nhân của vấn đề này chủ yếu xuất phát từ: (1) thiếu khuôn khổ pháp lý đầy đủ về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; (2) hạ tầng cơ sở hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng còn bất cập về hệ thống công nghệ thông tin, chuẩn mực kế toán, hệ thống luật doanh nghiệp bao gồm luật phá sản, luật bảo vệ người gửi tiền…; (3) cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng có nhiều bất cập và chồng chéo giữa các đơn vị; (4) năng lực của cán bộ thanh tra, giám sát còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế; (5) phương pháp và quy trình nghiệp vụ thanh tra, giám sát ngân hàng còn chưa được hoàn thiện theo chuẩn mực quốc tế. Hiện nay, công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nước CHDCND Lào đối với hệ thống ngân hàng dựa chủ yếu vào kiểm tra mức độ tuân thủ, phát hiện những sai phạm đã phát sinh thông qua kiểm tra, kiểm soát tại chỗ. Công tác thanh tra, kiểm tra hệ thống ngân hàng trên cơ sở rủi ro và hợp nhất chưa được thực hiện khiến cho Ngân hàng nước CHDCND Lào thiếu đi khả năng phát hiện, ngăn ngừa và kiểm soát những rủi ro hệ thống đang tiềm ẩn và đã xuất hiện trong hệ thống ngân hàng. Hệ thống cảnh báo sớm chưa được nghiên cứu triển khai cũng là một thiếu sót trong công tác thanh tra, giám sát ngân hàng khi mà hệ thống tài chính ngân hàng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với rủi ro và tiến tới thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường cho các tổ chức tài chính nước ngoài.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Chương 3 của luận án đã trình bày bối cảnh kinh tế vĩ mô của Lào và phân tích công tác điều hành CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào. Lào là một quốc gia có khả năng nắm bắt thời cơ, tạo nên những bước đột phá trong tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Dù vậy, quá trình chuyển đổi kinh tế tại Lào vẫn phải đối mặt với nhiều thử thách khi cơ sở hạ tầng còn khá lạc hậu; lượng dân số trẻ, đông, lao động dồi dào tạo áp lực lên việc làm và các vấn đề an sinh xã hội; khai thác tài nguyên ảnh hưởng tới môi trường…

Qua đánh giá tình hình phát triển về tiền tệ và hệ thống ngân hàng, tác giả đã chỉ ra quy mô của khu vực tiền tệ của Lào đã phát triển nhanh chóng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng đặt ra những vấn đề quan ngại về mức tăng trưởng quá “nóng” có thể gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô. Tình trạng đô la hoá cao, bắt nguồn việc lòng tin của công chúng vào đồng nội tệ thấp sau những đợt lạm phát cao trong quá khứ. Tương tự, hệ thống NHTM tại Lào cũng có sự phát triển nhanh chóng và đặt ra những quan ngại về chất lượng tài sản có, khả năng quản trị ngân hàng. Thực trạng này đặt ra những khó khăn cho công tác điều hành CSTT.

Trong từng giai đoạn kinh tế khác nhau, gắn với từng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, CSTT đã được điều hành bởi Ngân hàng nước CHDCND Lào bám sát theo các mục tiêu, yêu cầu của Chính phủ. Về cơ bản, điều hành CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào đã đạt được các mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện thuận lợi cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế; CSTT đã được thực hiện theo hướng bảo đảm nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội; các công cụ của CSTT được sử dụng linh hoạt và phối hợp hiệu quả hơn để ổn định thị trường …

Tuy nhiên, công tác điều hành CSTT vẫn còn một số tồn tại như: tỷ lệ lạm phát một số thời kỳ vượt quá mức mục tiêu đề ra của Chính phủ, hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, dự trữ ngoại hối mỏng... Những yếu kém này xuất phát từ việc CSTT đa mục tiêu và không có mục tiêu ưu tiên rõ ràng; mức độ độc lập của Ngân hàng CHDCND nước Lào tuy đã được cải thiện những vẫn ở mức thấp; hiệu quả truyền dẫn điều hành CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào thấp; hoạt động thanh tra, giám sát thiếu hiệu quả; tình trạng đô la hoá ở mức cao…


Chương 4

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


4.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2020

4.1.1. Định hướng phát triển kinh tế của Chính phủ nước Cộng hoà dân chủ nhân Lào đến năm 2020

a/ Định hướng chung về phát triển kinh tế - xã hội [65, tr.79]:

Những mục tiêu chung của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 7 của CHDCND Lào được cụ thể hoá qua bốn nội dung sau:

Duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định và đạt tốc độ tăng trưởng GDP lớn hơn 8%/năm, GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt mức 1.700 USD.

Hoàn thành mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) và hội nhập hoàn toàn vào cộng đồng ASEAN năm 2015, tận dụng công nghệ và cơ sở hạn tầng, và thiết lập nền tảng kinh tế đa dạng để đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng quốc gia kém phát triển vào năm 2020.

Đảm bảo tăng trưởng bền vững bằng việc hội nhập phát triển kinh tế đi kèm với phát triển văn hoá - xã hội và bảo vệ môi trường.

Đảm bảo ổn định chính trị, công bằng, và trật tự xã hội, và hỗ trợ hội nhập khu vực và quốc tế.

Định hướng chung và nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 7 bao gồm 7 nội dung: duy trì những kết quả phát triển đất nước đã đạt được trong thời kỳ trước và vượt qua những thử thách trong thời kỳ tới. Chính phủ và nền kinh tế thực hiện Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 9, với các biện pháp cần thực hiện nhằm đạt được của mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ bảy. Kế hoạch bao gồm việc đạt được các mục tiêu: phát triển nguồn nhân lực, đạt được thành tựu trong cơ chế, chế độ, và hệ thống quản lý; giảm đói nghèo bằng việc thu hút các nguồn vốn và chính sách thúc đẩy phát triển đặc biệt; và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản ở


những khu vực trọng tâm. Đây phải là một kế hoạch phát triển có mức độ bao quát lớn, tới tất cả các khu vực, lĩnh vực, vùng, và các địa phương. Những định hướng chính bao gồm [65, tr.79, 80, 81]:

Phát triển nền tảng kinh tế vĩ mô vững mạnh và ổn định nhằm bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; tập trung vào cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước; và đạt được mức độ phát triển kinh tế nhanh. Thúc đẩy cải cách cấu trúc nền kinh tế và lao động thông qua công nghiệp hoá và hiện đại hoá: áp dụng những phương pháp khoa học và kỹ thuật hiện đại; thúc đẩy phát triển văn hoá và xã hội; giảm đói nghèo và nâng cao phát triển con người; bảo vệ và duy trì môi trường và có kế hoạch trước biến đổi khí hậu, đặc biệt là bảo tồn và tăng cường tỷ lệ bao phủ rừng, bảo vệ nguồn nước; nâng cao mức độ hiệu quả của quá trình sản xuất; phát triển lợi thế cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế; hỗ trợ hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tìm kiếm những giải pháp giải quyết tình trạng đói nghèo tại các địa phương; thúc đẩy phát triển nông thôn và giảm đói nghèo; cấp đất, tạo việc làm ổn định, phát triển hướng nghiệp; bảo đảm công bằng trong xã hội; giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa khu vực nông thôn và thành thị, người giàu và người nghèo, và giới tính thông qua tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với giáo dục và kiến thức; ngăn ngừa bệnh dịch và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ y tế; xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản cho các làng; phát triển thêm nhiều làng…

Phát triển nguồn nhân lực, nền văn hoá, và duy trì sự hài hoà xã hội cùng với phát triển kinh tế; thúc đẩy khả năng của người dân thông qua cải cách về giáo dục; tạo điều kiện phát triển môi trường tri thức trong xã hội thông qua cung cấp giáo dục chất lượng cao và khuyến khích những tài năng của đất nước; phát triển đội ngũ quản lý tốt, đặc biệt là những người có năng lực về công nghệ và kỹ năng tốt; thúc đẩy bằng đẳng về giới, trao quyền cho phụ nữ và bảo vệ quyền lợi của trẻ em; bảo vệ và phát triển những truyền thống tốt đẹp của người dân Lào, thúc đẩy trao đổi văn hoá với quốc tế và khu vực…

Tăng cường năng lực quản lý công từ trung ương đến địa phương; thúc đẩy dân chủ thông qua việc phát triển và tuân thủ luật pháp; đảm bảo công bằng trong xã hội; kiểm soát tình trạng tham nhũng; khuyến khích tiết kiệm và hạn chế chi tiêu không cần thiết; giải quyết các vấn đề xã hội trên toàn quốc đúng tiến độ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/04/2022