Đại học Thái Nguyên Trường đại học sư phạm
------------------
VŨ HUY KỲ
ĐỊNH HƯỚNG TÌM TÒI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ KHI DẠY HỌC MỘT SỐ KIẾN THỨC CHƯƠNG “ CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” LỚP 10 BAN CƠ BẢN CHO HỌC SINH DÂN TỘC NỘI TRÚ
LUẬN VĂN THẠC SỸ GIÁO DỤC HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp giảng dạy Vật lý
Có thể bạn quan tâm!
- Định hướng tìm tòi giải quyết vấn đề khi dạy học một số kiến thức chương “ các định luật bảo toàn” lớp 10 ban cơ bản cho học sinh dân tộc nội trú - 2
- Tìm Hiểu Thực Trạng Việc Dạy Và Học Vật Lí Ở Trường Dân Tộc Nội Trú. 1.6.1- Mục Đích:
- Một Số Đặc Điểm Về Chương Trình Vật Lí Lớp 10 Ban Cơ Bản. 2.1.1- Mục Tiêu : Môn Vật Lí Lớp 10 Ban Cơ Bản Nhằm Giúp Học Sinh: 2.1.1.1- Về Kiến Thức
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
Mã số : 60.14.10
Hướng dẫn khoa học PGS - TS. Phan Đình Kiển
Thái Nguyên - 2007
Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS - TS Phan Đình Kiển, người thầy đã tận tình, chu đáo giúp đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa sau đại học, khoa Vật lý trường đại học sư phạm Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu ở trường.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường phổ thông Vùng cao việt bắc , trường PTDTNT tỉnh Hà Giang, các thầy cô giáo trong bộ môn Vật lý ở các trường thực nghiệm, các giáo viên cộng tác đã giúp đỡ , tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực nghiệm.
Thái nguyên tháng 10 năm 2007 Tác giả
Vũ Huy Kỳ
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Dạy học là hoạt động đặc trưng chủ yếu của nhà trường nói chung và các trường phổ thông nói riêng. Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học phát triển như vũ bão, tri thức mới ngày càng nhiều, đòi hỏi ngành Giáo dục - Đào tạo cũng phải có những đổi mới và phát triển theo kịp xu thế của thời đại. Đảng và nhà nước ta đã chỉ rõ: Phải phát triển mạnh mẽ Giáo dục - Đào tạo, lấy giáo dục làm quốc sách hàng đầu, coi giáo dục là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ người lao động có tri thức và có tay nghề cao, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo trên tất cả mọi lĩnh vực. Vì vậy mục tiêu của giáo dục là phải đào tạo ra những con người có phẩm chất đạo đức tốt, có tri thức và trình độ khoa học kỹ thuật cao, có kỹ năng nghề nghiệp để đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của xã hội.
Để thực hiện được những mục tiêu trên, đổi mới phương pháp dạy học trong giáo dục đào tạo là một trong những nhiệm vụ cấp bách mà Đảng và nhà nước ta quan tâm. Nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ 10 đã chỉ rõ : “Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu chương trình, nội dung, phương pháp, để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà”.....
“ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên.”
“ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,....Mở thêm các trường dân tộc nội trú, bán trú.”
Trong Luật giáo dục Việt Nam ( 12/1998) cũng chỉ rõ “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn” .Do đó những người làm công tác giáo dục phải quan tâm đến việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh, đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường phổ thông.
Trong quá trình đổi mới hệ thống giáo dục theo tinh thần nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ 10 nói trên, để đáp ứng yêu cầu cấp bách của sự đổi mới về nội dung đào tạo, cần có những đổi mới căn bản về phương pháp dạy học. Hiện nay việc dạy học theo kiểu thuyết trình tràn lan vẫn đang ngự trị. Nhiều giáo viên vẫn chưa từ bỏ lối dạy học cũ: Thày nói, trò ghi, trò hoàn toàn thụ động. Không phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Tư tưởng chỉ đạo và cũng là mục đích của quá trình đổi mới phương pháp dạy học là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh dựa trên nguyên tắc: Giáo viên giúp học sinh tự lực suy nghĩ, khám phá, đề xuất giải quyết vấn đề.
Xu hướng dạy học này đang rất được chú ý vận dụng, không những bởi hiệu quả to lớn thực tế của nó được thừa nhận, mà còn có cơ sở lí luận và thực tiễn vững trắc. Đây là một trong những xu hướng dạy học được nhiều nước quan tâm, nghiên cứu và mở rộng phạm vi ứng dụng.
ở nước ta hiện nay sách giáo khoa lớp 10 đã được biên soạn theo hướng tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh nhằm phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, say mê học tập và ý chí vươn lên.Vấn đề là làm thế nào để phát triển năng lực sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề là một trong những vấn đề cấp thiết cần được đầu tư nghiên cứu.
Trong khối các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội trú luôn được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, nhà nước và đồng bào các dân tộc.Hệ thống trường dân tộc nội trú không ngừng được mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng, có vị trí và đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giáo dục của cả nước. Qua điều tra tìm hiểu
chúng tôi được biết nhiều trường phổ thông dân tộc nội trú cũng đã không ngừng xây dựng và đổi mới phương pháp cũng như cách thức tổ chức dạy học cho phù hợp với đặc trưng của nhà trường và đã có được những thành công nhất định.
Tuy nhiên thực tế cho thấy dạy học ở các trường nội trú hiện nay còn nhiều bất cập. Đa số giáo viên chưa cập nhật được phương pháp mới vào dạy học vật lí, đặc biệt chưa có biện pháp khơi dậy và phát huy tính tích cự, chủ động, sáng tạo của học sinh. Mặt khác học sinh dân tộc thiểu số ở miền núi chưa có thói quen lao động trí óc, ngại suy nghĩ, thường hay máy móc, quen lối tư duy cụ thể. Thực tế đòi hỏi phải có phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh, đối tượng học sinh dân tộc nội trú.
Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục nói chung và dạy học vật lý nói riêng ở trường dân tộc nội trú, chúng tôi lựa chọn đề tài:
Định hướng tìm tòi giải quyết vấn đề khi dạy học một số kiến thức chương “ Các định luật bảo toàn” lớp 10 ban cơ bản cho học sinh dân tộc nội trú.
II. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu, vận dụng biện pháp Định hướng tìm tòi giải quyết vấn đề khi dạy học một số kiến thức chương “ Các định luật bảo toàn” lớp 10 ban cơ bản, cho học sinh dân tộc nội trú.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động dạy và học Vật lí ở trường dân tộc nội trú.
IV. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng tốt biện pháp tổ chức định hướng tìm tòi kiến thức cho học sinh một cách khoa học phù hợp với năng lực và đặc điểm của học sinh thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Vật lí của học sinh phổ thông nối chung và học sinh dân tộc nội trú nói riêng.
V. Nhiệm vụ nhiên cứu:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận phục vụ cho đề tài.
+ Khảo sát tình hình dạy và học vật lý ở một số trường phổ thông dân tộc nội trú.
+ Xây dựng tiến trình dạy học một số kiến thức chương “ Các định luật bảo toàn” lớp 10 ban cơ bản, trên cơ sở vận dụng biện pháp định hướng tìm tòi giải quyết vấn đề cho học sinh trong dạy học môn Vật lí.
+ Thực nghiệm sư phạm để bước đầu kiểm tra, đánh giá tính khả thi của đề tài
VI. Phương pháp nghiên cứu
+ Nghiên cứu lý luận dạy học vật lí, phương pháp dạy học vật lí ở trường dân tộc nội trú phục vụ cho đề tài.
+ Điều tra khảo sát thực trạng dạy và học vật lí lớp 10 ở trường dân tộc nội trú. Tìm hiểu biện pháp tổ chức định hướng tìm tòi giải quyết vấn đề cho học sinh trong dạy học môn Vật lí
+ Tổ chúc thực nghiệm sư phạm, kiểm tra giả thuyết khoa học đề ra.
+ Sử dụng phương pháp thống kê toán học để sử lí, thống kê, đánh giá kết quả điều tra và thực nghiệm sư phạm.
VII. ý nghĩa khoa học của đề tài.
+ Góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học biện pháp tổ định hướng tìm tòi giải quyết vấn đề cho học sinh khi dạy học môn Vật lí.
+ Kết quả của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh trong dạy và học ở trường dân tộc nội trú.
VIII. Cấu trúc luận văn.
+ Mở đầu.
+ Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
+ Chương II: Xây dựng tiến trình dạy học một số kiến thức vật lý dựa trên sự định hướng tìm tòi kiến thức cho học sinh dân tộc nội trú.
+ Chương III: Thực nghiệm sư phạm
+ Kết luận.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG TÌM TÒI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ CHO HỌC SINH DÂN
TỘC NỘI TRÚ.
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Theo ghi nhận của lịch sử, quá trình dạy học có từ rất lâu đời. Một thời gian dài trước đây khoa học phát triển cực kỳ chậm chạp. Những kiến thức được coi như chân lý vĩnh cửu, sách đã ghi thì đó là “chữ của thánh hiền”, thầy cứ thế mà truyền thụ, trò cứ thế mà tiếp thu, không ai được phép nghi ngờ. Quá trình dạy học chủ yếu là truyền thụ kiến thức, thầy giáo luôn giữ vai trò trung tâm, do đó không phát huy được khả năng của người học
Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội, quá trình dạy học đã có những bước tiến mới theo hướng ngày càng tích cực hoá hoạt động của người học, chuyển từ dạy học lấy “thầy giáo làm trung tâm” sang dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”. Mục đích của dạy học ngày nay không chỉ là truyền tải tới học sinh những kiến thức kỹ năng từ người thầy mà hơn hết rèn luyện cho các em khả năng tự học, tự nghiên cứu. Thầy giáo giữ vai trò là người định hướng cho sự phát triển tư duy sáng tạo của học sinh. Dạy học hiện đại không ngừng tìm kiếm những biện pháp, hình thức, phương pháp, phương tiện dạy học mới, hiệu quả đảm bảo sao cho trong quá trình dạy học năng lực tự lực của học sinh ngày càng bộc lộ và phát triển.
Theo hướng dạy học tích cực hoá hoạt động, nâng cao, phát triển năng lực tự lực của người học đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này:
1. Tổ chức hoạt động dạy học ở các trường trung học (Nguyễn Ngọc Bảo- Ngô Hiệu. Nxb Giáo dục 1997) đề cập đến các hình thức dạy học ở trường phổ thông,
ưu nhược điểm của từng hình thức và tác động của nó đến nhận thức, khả năng của học sinh khi tham gia quá trình học.
2. Học và dạy cách học (Nguyễn Cảnh Toàn- Nguyễn Kỳ- Lê Khánh Bằng Vũ Văn Tảo. Nxb Đại học Sư phạm 2002) Phân tích làm rõ hoạt động của thầy, hoạt động của trò; chỉ ra nhiêm vụ của thầy là dạy học sinh cách tự học, nhiệm vụ của trò là tự học, nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học, một nhân tố không thể thiếu cho việc hình thành năng lực của học sinh.
3. Hứng thú và hứng thú học tập ở người học (Nguyễn Thu Cúc. Tạp chí giáo dục số 56- 4/2003): Sự cần thiết phải tạo ra hứng thú ở người học, mối liên hệ giữa hứng thú và tính tích cực, tự lực của học sinh trong quá trình học tập.
4. ứng dụng một số biện pháp tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh DTNT một số tỉnh miền núi phía bắc ( Phạm Hồng Quang- Luận án tiến sĩ 1999): Đặc điểm của học sinh DTNT và hoạt động tự học ở trường DTNT, một số biện pháp tổ chức hiệu quả học tập ngoài giờ lên lớp cho học sinh trường DTNT.
5. Tổ chức hoạt động cho học sinh miền núi tích cực, tự lực chiếm lĩnh kiến thức qua dạy một số kiến thức chương “điên học” lớp 7. ( Phùng Thị Vân – Luận văn thạc sĩ ): Để tích cực hóa hoạt động học sinh trong giờ giải bài tập người giáo viên cần phải lựa chọn và kết hợp nhiều giải pháp : Lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học, lựa chọn hệ thống bài tập, phương pháp hướng dẫn học sinh phù hợp…
Trong các nghiên cứu ở trên, các tác giả đã đi sâu vào từng khía cạnh của quá trình giáo dục: Đổi mới phương pháp, phối hợp hợp lý các hình thức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh trong quá trình nhận thức. Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu về vấn đề: Định hướng tìm tòi giải quyết vấn đề cho học sinh dân tộc nội trú trong dạy học vật lí.
1.2- Hoạt động dạy – học 7 ,17, 24
1.2.1- Bản chất của sự dạy.
Dạy học là một hoạt động nghệ thuật mang tính sư phạm cao, nhằm trả lời các câu hỏi: Dạy ai? Dạy cái gì? Dạy như thế nào? Và dạy để làm gì?
Trước đây quan niệm cho rằng: Dạy học chỉ đơn thuần là truyền thụ những kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa , theo một chương trình đã được qui định sẵn ở một cấp học nào đó. Giáo viên chỉ cần cố gắng sao cho truyền thụ kiến thức được chính xác, rõ ràng và đầy đủ những nội dung đã được qui định.
Theo quan điểm của lí luận dạy học và giáo dục học hiện đại ngày nay thì dạy học là dạy cho học sinh biết hành động. Mỗi hoạt động dạy là một sự tác động tương hỗ có định hướng của người dạy, người học và đối tượng nghiên cứu. Hoạt động dạy học chỉ được sảy ra khi có hoạt động học tích cực của học sinh.
Xuất phát từ bản chất của sự học là hành động nhận thức tích cực, tự lực của học sinh thì dạy học là hoạt động tổ chức và định hướng của giáo viên đối với hành động nhận thức tích cực của học sinh. Đồng thời với quan niệm học là hành động của học sinh thích ứng với tình huống nhận thức thì dạy học là dạy hành động chiếm lĩnh tri thức.
Điều đó có nghĩa, dạy học là hoạt động tổ chức tình huống học tập , là xây dựng những qui trình, các thao tác, phương pháp định hướng hành động nhận thức của học sinh nhằm tạo ra những điều kiện đòi hỏi thích ứng của học sinh để họ tích cực, tự lực thực hiện các hành động học tập, qua đó học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng, đồng thời năng lực, trí tuệ, nhân cách của họ được phát triển.
Hoạt động tổ chức và định hướng hành động học của học sinh trong dạy học khoa học phải phù hợp với tâm lí học nhận thức và với khoa học bộ môn.
Dạy học được coi là tốt nếu nó đi trước sự phát triển, kéo theo sự phát triển.
Xuất phát từ luận điểm khoa học đó Vưgotki đã xây dựng lí thuyết
“ vùng phát triển gần nhất” của trẻ em. Lí thuyết này thể hiện nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức và yêu cầu phát triển. Theo lí thuyết này, những yêu cầu đặt ra đối với học sinh phải hướng vào “ Vùng phát triển gần nhất”, tức là phải phù hợp với trình độ học sinh đã đạt được ở thời điểm gần đó.
Vận dụnh lí thuyết này, trong quá trình dạy học (Đặc biệt là ngay trong soạn thảo tiến trình dạy học cụ thể) cần tổ chức và định hướng hành động học của học sinh sao cho gần với vùng phát triển gần nhất, dự kiến “chuỗi” những hành động học tập mà học sinh cần phải thực hiện để giải quyết hành động học tập một cách tối ưu.
1.2.2- Bản chất hành động của sự học tập
Học tập là hoạt dộng nhận thức, nó tuân theo cơ chế chung của quá trình nhận thức thế giới hiện thực khách quan được Lê-Nin nêu lên thành một luận điểm nổi tiếng đó là:“Từ trực quan sinh động tới tư duy trừu tượng , rồi từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn”. Điều đáng lưu ý là nhận thức học tập của học sinh là nhận thức những cái mà nhân loại đã biết và nó là quá trình vận động từ chưa có kiến thức đến có kiến thức, một quá trình vận động biện chứng đầy mâu thuẫn. Nguồn gốc, cơ chế và khuynh hướng của quá trình này cũng như vận động của thế giới hiện thực được phản ánh trong các qui luật của thế giới biện chứng.
Theo quan điểm tâm lí học tư duy thì sự học là một sự phát triển về chất của cấu trúc hành động. Học tập vừa là quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học, vừa là quá trình rèn luyện kỹ năng hành động. Rõ ràng là cùng một biểu hiện hành vi bề ngoài giống nhau, nhưng chất lượng học tập vẫn có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào sự phát triển của cấu trúc hành động học tập của chủ thể, ở đây hành vi được xem như biểu hiện ra bên ngoài của kết quả hành động, còn cách thức đạt tới kết quả đó được xem như kết quả bên trong của hành động học.
Hoạt động học tập của học sinh là một hoạt động của chủ thể có ý thức.Theo quan điểm tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, mỗi hoạt động của chủ thể có ý thức bao gồm một hệ thống các hành động tương ứng với các mục đích cụ thể và mỗi hành động gồm các thao tác tương ứng với các điều kiện và phương tiện hành động.
Như vậy có thể hiểu hành động học tập là một đơn vị cơ bản của hoạt động học tập. Trong quá trình học tập , sự hình thành các biểu tượng, khái niệm, kiến thức
được xem là sự hình thành các hành động trí tuệ, là hình thức hành động ngôn ngữ trong. Nó bắt nguồn từ hành động vật chất và trải qua giai đoạn hành động ngôn ngữ ngoài.
Hoạt động
Động cơ
Hành động
Mục đích
Thao tác
điều kiện Phương
Hình 1: Sơ đồ cấu trúc tâm lí hoạt động
Có thể nói, hoạt động học tập được diễn ra là nhờ có tiến hành các hành động học tập. Học sinh chỉ giải quyết được nhiệm vụ học tập nhờ vào tiến hành các hành động học tập một cách tự giác và tích cực.
Hành động học tập bao gồm các hành động cụ thể sau:
+ Hành động phân tích , hành động này nhằm phát hiện ra nguồn gốc xuất phát của khái niệm khoa học và cấu tạo lôgíc của khái niệm.
+ Hành động mô hình hoá, hành động này giúp học sinh diễn đạt khái niệm một cách trực quan.
+ Hành động cụ thể hoá, hành động này giúp học sinh phương pháp hành động chung ( tổng quát) và việc giải quyết các vấn đề cụ thể trong cùng một lĩnh vực, tức là làm phong phú các mối quan hệ chung bằng biểu hiện riêng của nó.
+ Hành động kiểm tra tiến trình giải quyết nhiệm vụ học tập và kết quả của hành động học tập .
+ Hành động đánh giá tiến trìnhvà kết quả hoạt động so với nhiệm vụ đặt ra trước.Nếu kết quả thấp hơn mục đích (xét về mặt chất lượng) thì phải điều chỉnh lại phương pháp học tập, phương pháp hành động cho phù hợp với đặc điểm của đối tượng học tập.
Các hành động trên đây được biểu hiện ở mức độ tổng quát là hành động chiếm lĩnh tri thức khoa học và hành động vận dụng tri thức khoa học. Mỗi hành động diễn ra theo các pha : Định hướng, chấp hành và kiểm tra.
Thực chất của quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học chính là quá trình hình thành các hoạt động học tập như đã nêu ở trên.
Theo chúng tôi, các hành động học tập Vật lí của học sinh một mặt nó tuân theo các đặc điểm của các hành động học tập nêu trên, mặt khác nó còn có những đặc thù riêng phù hợp với quá trình hình thành và phát triển của khoa học Vật lí. Cụ thể những hình thức hành động học tập chính trong môn Vật lí là:
- Quan sát tự nhiên để nhận biết những đặc tính bên ngoài của sự vật hiện tượng.
- Tác động vào tự nhiên trong những điều kiện khống chế(làm thí nghiệm) để làm bộc lộ những mối quan hệ, những thuộc tính bên trong của sự vật hiện tượng.
- Phân tích một hiện tượng phức tạp ra thành những hiện tượng đơn giản bị chi phối bởi một số ít nguyên nhân.
- Xác định mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
- Xác định mối quan hệ hàm số giữa các hiện tượng.
- Xây dựng những giả thuyết hay mô hình để lí giải nguyên nhân hiện tượng quan sát được.
- Thực hiện những suy luận lôgíc hay biến đổi toán học để từ giả thuyết hay mô hình suy ra những quan hệ có thể quan sát được trong thực tiễn.
- Xây dựng phương án thí nghiệm để kiểm tra những hệ quả, dự đoán giả thuyết.
- Đánh giá kết quả của những kết luận thu được trong thí nghiệm .