điều kiện tăng trưởng, sự sinh sản, và hình dáng của các loài Lan. Đã có nhiều hệ thống phân loại đã được đưa ra: hệ thống phân loại của Lindley (1836) đã chia họ Lan ra làm 7 tông, còn George Bentham (1881) chia họ Lan ra 5 tông,.... đa số đều dựa trên những tiêu chuẩn cơ bản như đặc điểm, cấu trúc của hoa, số lượng và bản chất của phấn khối. Sự đánh giá các tiêu chuẩn ấy vẫn còn mang tính chủ quan của tác giả nên các hệ thống phân loại này vẫn chưa phản ánh đúng tiến trình tiến hóa trong tự nhiên của các loài Lan [22].
Từ khi Lan được nuôi trồng thì yêu cầu nhân giống Lan cũng xuất hiện theo. Tác giả Nguyễn Thiện Tịch cho biết bí mật của việc nảy mầm của hạt Lan đã được tìm ra vào năm 1899, khi Noel Bernard khảo sát các hạt Neottia nidus- avis nảy mầm tự nhiên trong rừng vùng Fontainebleau (Pháp). Ông thấy các cây Lan con đều nhiễm nấm. Năm 1904 Noel Bernard mới thành công trong việc phân lập các nấm từ rễ Lan rồi cho nhiễm vào các hạt Lan. Bằng cách này, Noel Bernard là người đầu tiên làm cho 100% hạt Lan nảy mầm. Sau đó Noel Bernard và Burgeff đã hình thành phương pháp gieo hạt Lan có nhiễm nấm trong chai thạch (phương pháp gieo hạt cộng sinh). Năm 1922, Knudson đã nhận thấy vai trò của nấm với hạt Lan là sự cung cấp đường và đã thành công trong việc thay thế nấm bằng đường ở môi trường thạch để gieo hạt (phương pháp gieo hạt không cộng sinh) [22].
Theo Bùi Xuân Đáng, giáo sư Georges Morel (1960) người Pháp đã phát minh ra phương pháp Meristem (Phương pháp nuôi cấy mô phân sinh), tức là cắt mầm hay rễ Lan thành mảnh nhỏ rồi cho vào trong một dung dịch đặc biệt, sử dụng máy để lắc đều. Vài tuần sau, từ mảnh Lan này sẽ phát triển thành những cây Lan nhỏ có thể đem đi trồng. Phương pháp này đã khắc phục được những khó khăn của cách gieo Lan bằng hạt do đặc điểm hạt Lan nhỏ và quá trình xử lý nảy mầm cũng rất phức tạp [8].
Judy White (1996), trong cuốn Taylor’s Guides to Orchids đã giới thiệu một số loài Lan phổ biến trồng ở gia đình như: Cattleya, Cymbidium, Dendrobium, Phalaenopsis, Vanda, Oncidium,... Không chỉ giới thiệu về điều
kiện sống, yêu cầu nhiệt độ và ánh sáng để cây sinh trưởng phát triển mà trong đó tác giả còn miêu tả những nét đặc trưng của một số loài Lan. Cuốn sách như là một cẩm nang cho những ai yêu thích việc trồng Lan [28].
Bill Lavarack và cộng sự (2000), trong cuốn Dendrobium and its relatives đã cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về một số loài trong chi Dendrobium; tác giả đã trình bày từ vấn đề phân loại và danh pháp, đặc điểm phân bố và nguồn gốc của một số loài trong chi Dendrobium. Bên cạnh đó, tác giả còn mô tả đặc điểm sinh học và sinh thái học của hơn 400 loài, vấn đề nuôi trồng và lai giống của các loài này. Qua cuốn sách này, tác giả cũng đã giúp cho những người yêu Lan biết được môi trường sống và cách thức trồng, chăm sóc một số loài trong chi Dendrobium nhằm đạt được hiệu quả cao nhất [27].
Trong cuốn Orchid grower’s companion: cultivation, propagation, and varieties của David P. Banks (2005) đã cung cấp cho những hiểu biết cơ bản về họ Lan: cấu tạo của cây, lịch sử nuôi trồng, sự phân bố của chúng,.... Cuốn sách cũng cung cấp những kỹ năng cơ bản trong việc nuôi trồng, chăm sóc hoa Lan. Qua đó giúp chúng ta biết được nhu cầu nhiệt độ, độ ẩm, chế độ phân bón, cách thức nhân giống và một số bệnh hại Lan thường gặp. Cuốn sách này cũng giới thiệu đặc điểm của một số loài thuộc các chi: Bulbophylium, Cattleya, Coelogyne, Cymbidium, Dendrobium, Paphiopedium, Phalaenopsis, Vanda,... Qua đó đã giúp người đọc nhận biết được một số loài Lan thường gặp [26].
1.2. Ở Việt Nam
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá khả năng nuôi trồng và kinh doanh một số loài Lan rừng tại khu vực Sa Pa – Lào Cai - 1
- Nghiên Cứu Đặc Điểm Hình Thái Và Phân Bố Của 6 Loài Lan
- Bảng Tổng Hợp Các Yếu Tố Khí Tượng Năm 2005 – 2008 Khu Vực Sa Pa – Lào Cai
- Kết Quả Điều Tra Các Loài Lan Trong Tự Nhiên Ở Khu Vực Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
Phong lan thuộc ngành Ngọc Lan (Mangnoliophyta), lớp Hành (Liliopsida), Phân lớp Hành (Lilidae), Bộ Lan (Orchidales), Họ Lan (Orchidaceae) [1].
Việc phát hiện, thuần hóa và gây trồng hoa Lan đã có một lịch sử lâu dài so với các loài cây thực phẩm. Từ đời nhà Trần, vua Trần Anh Tông là người chơi Phong lan nổi tiếng đã xây dựng vườn “Ngũ bách Lan viên” gây trồng tới 500 loài Lan khác nhau [16]. Nhưng đó mới chỉ đơn thuần là sưu tập để thưởng ngoạn chứ chưa đi sâu mô tả nghiên cứu về loài hoa này.
Theo Bùi Xuân Đáng, việc tìm kiếm Lan rừng của Việt Nam chúng ta trước kia không thấy sách vở nào ghi chép, nhưng những người nước ngoài đến Việt Nam sưu tầm hoa Lan đều viết sách hoặc có tường trình công việc của mình. Người đầu tiên khảo sát Lan ở Việt Nam là một nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha, Joannis de Loureiro đã đến Nam Kỳ vào năm 1743. Ông đã xuất bản cuốn Cây cỏ tại Nam Kỳ vào năm 1790. Trong tài liệu này có ghi lại những loại Lan Aerides (Giáng Hương) và Thrixspermum (Mao tử) [7].
Theo Nguyễn Thiện Tịch thì F.Gainepain và A.Gullanmin đã mô tả 101 giống gồm 750 loài cho cả 3 nước Đông Dương trong bộ “Thực vật chí Đông Dương” do H. Lecomte chủ biên ở quyển 6, xuất bản năm 1932 - 1934. Một số tác giả khác cũng đề cập đến Lan Việt Nam như Schmid, Tixer và Gunna Seidenfaden (1975) [22].
Tác giả Bùi Xuân Đáng cũng cho biết, năm 1992 giáo sư Gunnar Seidenfaden người Đan Mạch đã cho phát hành cuốn Hoa Lan tại Đông Dương bao gồm 200 giống với 2000 loài, trong đó có 136 giống và 720 loài của Việt Nam. Giáo sư Seidenfaden ghi rõ sách vở tra cứu, hình vẽ, tuy nhiên còn có nhiều cây không được mô tả rõ ràng do vấn đề ngôn ngữ [7].
Cũng theo Nguyễn Thiện Tịch, năm 1972 giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong cuốn “Cây cỏ Miền Nam Việt Nam” có mô tả 289 giống Lan ở Việt Nam ở quyển II về đặc điểm hình thái lá, hoa, thân, rễ và nơi phân bố của chúng. Năm 1993, giáo sư Phạm Hoàng Hộ tái bản lại bộ Cây cỏ Việt Nam, đã bổ sung thêm 364 loài Lan nâng tổng số Lan có ở Việt Nam lên 653 loài [22]; trong bộ sách này, số loài tuy được mô tả ít hơn nhưng không khác nhiều so với mô tả của Gunnar Seidenfaden. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ có ghi rõ tên khoa học, tên tiếng Việt, địa điểm tìm thấy Lan và đã mô tả về cây, về hoa, kèm theo hình vẽ và giải thích để giúp người đọc hình dung ra được cây Lan [7].
Đặc biệt trong tác phẩm “Phong lan Việt Nam” của TS. Trần Hợp đã miêu tả và phân loại chi tiết được 800 loài thuộc 138 chi [10]. Họ Lan đang ngày càng
gây được sự chú ý của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước vì thế mà nhiều giá trị quý của họ Lan đang ngày càng được phát hiện không những về khoa học mà còn có giá trị kinh tế.
Tài liệu được công bố gần đây theo bảng trích yếu cập nhật hoá về các loài Phong lan của chuyên gia cao cấp về hoa Lan của thế giới Leonid Averyanov và Anna L. Averyanov (2003) ở Việt Nam hiện đã biết 897 loài, 152 chi. Đặc biệt trong tác phẩm Lan Hài Việt Nam (2004) của Leonid Averyanov, Phillip Cribb, Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Hiệp đã có mô tả chi tiết 22 loài Lan thuộc chi Lan Hài (Paphiopedilum). Đây là nhóm thực vật thuộc nhóm IA trong sách đỏ Việt Nam chúng đều là các loài quý hiếm nhiều loài đặc hữu đang có nguy cơ cao bị tuyệt chủng ở mức độ cao [11].
Trong cuốn “Đa dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa Pa – Phan Si Pan” (1998) của GS.TSKH Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời đã có số liệu thống kê được 110 loài Lan thuộc 42 chi có phân bố trên dãy Hoàng Liên [19].
Ngoài những công trình nghiên cứu về tính đa dạng và đặc điểm phân bố của hệ Lan ở Việt Nam, cũng có những tác giả đi vào nghiên cứu kỹ thuật trồng những loài Lan phổ biến, có giá trị kinh tế. Cuốn “Hoa Lan- nuôi trồng và Kinh doanh” của Phan Thúc Huân (2005) đã giới thiệu về lịch sử nghề trồng Lan, các giống Lan phổ biến ở Đông Nam Á. Tác giả cũng trình bày đặc điểm hình thái, phân loại, quá trình sinh trưởng và yêu cầu sinh thái, kỹ thuật nhân giống và chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho một số loài Phong lan ở Việt Nam [12].
Cuốn sách “Kỹ thuật trồng và kinh doanh Phong lan” của tác giả Việt Chương (2006), “Trồng hoa Lan” của Nguyễn Công nghiệp (2006) đều đã mô tả sự phân bố địa lý và môi trường tự nhiên của họ Lan. Sau đó tác giả còn hướng dẫn các bước chăm sóc Lan cơ bản như tưới nước, bón phân, ánh sáng, nhiệt độ, vấn đề sang chậu cho Lan và phòng trừ sâu bệnh hại. Cuốn sách cũng hướng dẫn các phương pháp nhân giống cơ bản có thể tiến hành. Cuối cùng tác giả giới thiệu sơ lược về những loại Lan phổ biến được trồng hiện nay như Cattleya,
Cymbidium, Dendrobium, Oncidium, Phalaenopsis,… nhằm giúp người đọc có thể tìm ra loại cây trồng phù hợp với điều kiện của bản thân [3][18].
Cuốn “Cẩm nang nuôi trồng và kinh doanh Phong lan” của Huỳnh văn Thới (2005) là tác phẩm đúc kết kinh nghiệm nuôi trồng Phong lan của nhiều nghệ nhân trong việc trồng hoa cây cảnh. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kỹ thuật về sinh lý, sinh thái, về cách trồng và chăm sóc một số loài Lan, biết chọn giống phù hợp với môi trường,... Bởi vì chỉ có biết rõ về cây Lan mới có thể mạnh dạn đầu tư phát triển kinh doanh đạt hiệu quả cao [21].
Đề tài “Thử nghiệm nhân giống, trồng hoa Phong lan và một số loài hoa ôn đới khác tại Sa Pa – Lào Cai” của Công ty Du lịch tỉnh Lào Cai - Viện Di truyền Nông nghiệp - Bộ NN &PTNT và Trung tâm giống Nông Lâm nghiệp Lào Cai thực hiện 5/2000 - 5/2003. Đề tài nghiên cứu khả năng thích ứng của hoa Lan và một số loài hoa ôn đới ở Sa Pa. Năm loài Lan (Kiếm Đà Lạt, Hồ điệp, Hạc đính, Lan Hoàng thảo, Kiếm Sa Pa) và chín loài hoa ôn đới khác đã được lựa chọn. Qua quá trình trồng và thử nghiệm dự án đã đưa ra kết luận các loài Lan Kiếm Đà Lạt, Kiếm Sa Pa, Hoàng thảo, Hạc đính có thể trồng được ở Sa Pa. Riêng Hồ điệp không phù hợp do không chịu được thời tiết lạnh đặc biệt là sương muối và gió ở khu vực này. Đề tài đã xây dựng được quy trình và nhân giống thành công một số loài Lan bằng phương pháp nuôi cấy mô và tách mầm (với một số loài Kiếm, Hoàng thảo của Sa Pa)[4].
Sa Pa lại được coi là trung tâm đa dạng của các loài Lan ở Việt Nam, thế nhưng đến nay vẫn chưa có công trình đáng kể nào nghiên cứu về đặc điểm, khả năng nuôi trồng và kinh doanh các loài Lan ở đây nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của những người chơi Lan.
Tuy vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều đi vào mô tả đặc điểm chung về hình thái của các loại Lan giúp cho người chơi có thể nhận biết được các loài hoa, một số công trình nghiên cứu cũng chỉ đưa ra kỹ thuật gây trồng, cách thức nuôi dưỡng chung cho các
loài Lan khác nhau. Tuy nhiên, trong thực tế thì mỗi loài Lan ở những khu vực khác nhau lại có nhu cầu dinh dưỡng và yêu cầu sinh thái khác nhau, đặc biệt là với các loại Lan rừng. Vì thế, việc nghiên cứu cụ thể đặc điểm của từng loài là việc làm rất cần thiết để tạo thuận lợi cho quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng Lan sau này.
1.3. Giới thiệu về họ Lan
1.3.1. Đặc điểm chung
Họ Lan được đánh giá là một trong những loài hoa cao cấp trong vương quốc thảo mộc, gồm hơn 25000 loài khác nhau, cùng với những loài mới được khám phá và mô tả theo từng năm. Do chúng được phân bố ở hầu khắp mọi nơi nên các loài Lan cũng rất khác nhau; Phong lan là những loài sống phụ sinh trên vỏ, thân các loài thảo mộc khác; Địa lan là những loài sống trên mặt đất, trên các vách đá có rêu hay ở các kẽ đá có đất; Hoại lan là những loài sống nhờ vào chất mục nát trong đất, hay sống ngầm trong đất.
1.3.2. Đặc điểm hình thái
1.3.2.1. Cơ quan sinh dưỡng
- Giả hành (thân củ): chỉ xuất hiện trên các loài Lan đa thân. Bộ phận này được cấu tạo từ các màng chồng chất lên nhau, chúng mang lá, mang hoa và là nơi chứa chất dinh dưỡng, nước rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của Lan.
- Thân: Thân vẩy giả có nhiều hình dạng khác nhau tùy loài Lan. Trên thân có đốt, trên mỗi đốt mọc một nhánh hoặc lá bao. Chỉ có các loài đơn thân và một số loài của giống Dendrobium và Epidendrum là vừa có giả hành, vừa có thân. Thân thường mang rễ và lá do đây là cơ quan dự trữ nước và chất dinh dưỡng
- Lá: là cơ quan dinh dưỡng của hoa Lan, là xưởng chế tạo chất dinh dưỡng bằng quang hợp. Phiến lá thường có hình lưỡi kiếm dài, số lượng và hình dạng lá khác nhau tùy chủng loại Lan. Lá có thể mọc đối xứng qua gân chính, lá mọc sát nhau ở gốc hay xếp cách có bẹ úp lên nhau, chia đốt đều đặn, có khi lá thoái hóa thành vẩy hay phình lên, mọng nước, hình dạng rất khác nhau.
- Căn hành (thân rễ): bộ phận này chỉ gặp ở Lan đa thân. Căn hành là nơi cấu tạo các cơ quan dinh dưỡng mới, trên căn hành có các mắt sống, chết hoặc hưu niên. Đây là bộ phận nối liền các thân củ và có mọc các đám rễ để nuôi sống cây Lan
- Rễ: rễ ở Lan đa thân thường được hình thành từ căn hành. Ở các loài đơn thân thì rễ mọc thẳng từ thân và thường xen kẽ với lá. Rễ trên không của các loài Lan phụ sinh có một trục chính bao quanh bởi mô không chặt, giống bọt biển gọi là mạc. Mạc có thể hấp thụ hơi nước của không khí, cũng như tích trữ nước mưa và sương đọng để cung cấp cho cây.
1.3.2.2. Cơ quan sinh sản
- Hoa: Ở loài Lan hoa thường tập hợp thành cụm hoa, chùm hay bông. Hoa lưỡng tính, đối xứng hai bên. Bao hoa dạng cánh, rời nhau, xếp thành 2 vòng: 3 phiến hoa ngoài cùng gọi là 3 lá đài, thường cùng màu và có cùng kích thước với nhau. Nằm kế bên trong và xen kẽ với 3 lá đài là 3 cánh hoa, trong đó 2 cánh bên thường giống nhau về màu sắc và hình dạng. Cánh hoa còn lại nằm phía dưới của hoa, thường có màu sắc và hình dạng đặc sắc khác hẳn 2 cánh kia, được gọi là cánh môi hay lưỡi. Chính cánh môi này quyết định phần lớn giá trị thẩm mỹ ở hoa Lan.
- Quả: quả Lan khi khô, mở thành 3- 6 mảnh. Hạt rất nhỏ và nhiều, thường không có nội nhũ. Do nhẹ nên hạt dễ phát tán nhờ gió. Ở nhiều loài, trong quả có lông hút nước dùng để bắn hạt đi. Phôi trong hạt phát triển yếu, không phân hóa thành cơ quan. Hạt Lan muốn nẩy mầm cần có nấm cộng sinh.
1.3.3. Đặc điểm về phân loại
Họ Lan (Orchidacea) là họ lớn thuộc lớp một lá mầm, phân bố khắp nơi trên thế giới.
Dựa vào môi trường sống có thể chia họ Lan làm 3 nhóm:
- Phong lan: Những loài sống phụ sinh trên vỏ, thân cây gỗ: Cattleya, Oncidium, Dendrobium, Phalaenopsis, Aerides, Biermannia, ...
- Địa lan: Những loài sống trên mặt đất, trên các vách đá có rêu hay ở các kẽ đá có đất: Cymbidium, Phaius, Paphiopedilum,...
- Hoại lan: Một số loài hoại sinh không có diệp lục và sống nhờ vào chất mục nát trong đất, có loài ở Châu Úc lại sống ngầm dưới đất như nấm (Lan Rhizanthella Gardeni được tìm thấy ở miền Tây Úc năm 1928 cùng với một giống Lan khác)
Dựa vào cấu tạo và phát triển của thân có thể chia họ Lan làm 2 nhóm:
- Nhóm đơn thân: đây là nhóm mà thân phát triển vô hạn về phía đỉnh ngọn theo chiều thẳng đứng cho nên những phát hoa chỉ xuất phát từ một bên thân mà không bao giờ ở đỉnh ngọn. Nhóm đơn thân được chia làm 2 nhóm phụ:
+ Nhóm phụ lá mọc đối: nhóm này lá được xếp thành 2 hàng mọc đối nhau, lá trên một hàng xen kẽ với lá của hàng kia. Gồm các chi: Vanda, Aerides (Dáng hương), Phalaenopsis (Hồ điệp),...
+ Nhóm phụ lá dẹp thẳng hay tròn: Papilionanthe, Luisia (san hô),...
- Nhóm đa thân: đời sống của cây gồm nhiều đơn vị nối tiếp nhau, bởi sự phát triển liên tục của những chồi nách ở về phía gốc và có những kỳ nghỉ sau mùa tăng trưởng. Căn cứ vào cách ra hoa nhóm này được chia làm 2 nhóm phụ:
+ Nhóm ra hoa phía trên: Cymbidium, Dendrobium, Oncidium,...
+ Nhóm ra hoa ở đỉnh: Cattleya, Laelia, Epidendrum,...
1.3.4. Giới thiệu về chi Cymbidium Sw
Đây là chi Lan lớn có thể gặp phổ biến một số loài ở khu vực Sa Pa. Chi Lan Kiếm thuộc nhóm có giả hành lớn, lá hình giáo dài, hoa hầu hết có kích thước lớn. Chi này có cả nhóm Lan đất và phụ sinh, thường phân bố trong các khu rừng già ẩm ướt. Đây là nhóm Lan hiện đang được người dân khai thác rất nhiều để nuôi trồng làm cảnh.
Theo tài liệu về thực vật ở Đông Dương, từ năm 1932, Henri Lecompte cho rằng chi này có 120 loài. Đến năm 1978 Jean Carmard sắp xếp lại và xác định chi này có khoảng 60 loài. Những nhà phân loại học Việt Nam như Phạm Hoàng Hộ, Võ Văn Chi... đã giới thiệu ở nước ta có khoảng 12 loài. Các loài thuộc chi Cymbidium phân bố chủ yếu ở châu Á, từ dãy Hymalaya đến Nam Trung Quốc (Vân Nam), các nước Đông Dương, Thái Lan ... và một vài loài