Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 17


nghiệp có cơ sở pháp lý tự nguyện hợp tác với nhau, đổi mới phương thức sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Ngoài ra, phương thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún của các doanh nghiệp Việt Nam như hiện nay không phù hợp với mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa nữa, do đó các doanh nghiệp cũng phải cố gắng củng cố mối quan hệ lẫn nhau, tạo sự hợp tác, phát triển vững chắc. Cơ quan quản lý nhà nước cũng có thể đưa ra các biện pháp và chính sách phù hợp tạo thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc giải quyết vấn đề này.

Thứ năm, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần tích cực xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga.

Đây là một trong những căn cứ giúp đảm bảo uy tín và danh tiếng của sản phẩm, nâng cao giá trị và gia tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa nông sản trong nước. Để xây dựng và phát triển thương hiệu cho các mặt hàng nông sản Việt Nam, trước mắt, ta cần định hướng lựa chọn một số thương hiệu chủ lực cho các mặt hàng nông sản đang có thế mạnh trên thị trường các nước thành viên như các đặc sản cà phê Buôn Mê Thuột, thanh long Bình Thuận, xoài cát Hoà Lộc, bưởi Năm Roi, hồ tiêu Chư Sê … để có thể xuất khẩu trực tiếp vào thị trường các nước này mà không phải qua trung gian hoặc mượn thương hiệu nước ngoài.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có thể hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu nông sản xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản Việt Nam thông qua sở hữu trí tuệ. Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn nhiều lần cho sản phẩm của các doanh nghiệp đã được trao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ. Ở Việt Nam, việc sử dụng sở hữu trí tuệ như một công cụ nhằm nâng cao uy tín sản phẩm hiện nay chưa thực sự được chú trọng bởi việc này không thể cho kết quả ngay, mà đòi hỏi phải kiên trì cả một quá trình mới thành công.

3.2.3.2. Đối với xuất khẩu thủy sản


Thứ nhất, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần từng bước gia nhập kênh phân phối trên thị trường Liên bang Nga.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Về lâu dài, để xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga đạt hiệu quả cao nhất, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần phải xây dựng một hệ thống phân phối riêng. Tuy nhiên, trước mắt, hầu hết các doanh nghiệp lại chưa có đủ khả năng để thiết lập Các doanh nghiệp còn hoàn toàn có thể thông qua các hình thức khác để từng bước gia nhập kênh phân phối trên thị trường này.

Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam có thể liên kết với cộng đồng người Việt ở Liên bang Nga để đầu tư sản xuất, chế biến và xuất khẩu những mặt hàng thuỷ sản mà thị trường đang có nhu cầu. Hai bên cùng góp vốn để thành lập liên doanh. Phía Việt Nam với ưu thế về lao động, nguyên liệu, nhà xưởng sẽ chịu trách nhiệm sản xuất. Phía nước ngoài với sự nhạy bén trong kinh doanh và kênh phân phối sẵn có sẽ chịu trách nhiệm tiêu thụ hàng hoá. Bằng cách này, hàng hoá được sản xuất ra sẽ thuận lợi hơn trong việc thâm nhập kênh phân phối trên thị trường Liên bang Nga, đồng thời đáp ứng tốt và kịp thời thị hiếu của người tiêu dùng nước này. Các doanh nghiệp lớn có nguồn hàng ổn định có thể liên kết dưới nhiều hình thức với các công ty thương mại hay các nhà phân phối lớn tại Nga, nhờ đó có thể thâm nhập trực tiếp vào các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường Nga (hệ thống các siêu thị, cửa hàng bán lẻ).

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 17

Thứ hai, doanh nghiệp cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong việc tham gia các hội chợ, triển lãm chuyên ngành thuỷ sản tại Liên bang Nga.

Một trong những cách thức thâm nhập trực tiếp và nhanh chóng vào thị trường Liên bang Nga là tham gia các hội chợ, triển lãm. Như đã nói, việc thị trường Liên bang Nga yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam bên cạnh việc phải đáp ứng được tiêu chuẩn của họ còn cần phải có hợp đồng với nhà nhập khẩu mới được phép xuất khẩu vào thị trường này, đã gây không ít khó khăn cho việc chào hàng của phía Việt Nam. Khi đó, rõ ràng, hội chợ hay triển lãm thương mại trở thành cơ hội rất tốt để doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm của mình tại thị trường Nga. Thực tế cho thấy, có nhiều những thương vụ hợp tác được ký kết thành công thông qua những hội chợ, triển lãm như vậy. Gần đây nhất, thuỷ sản Việt Nam cũng được đánh giá rất cao tại hai hội chợ lớn của Nga là hội chợ thuỷ sản Nga và hội chợ mùa thu vàng Moskva.


Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ về nhiều mặt, cần học tập kinh nghiệm của một số nước có trình độ và năng lực xuất khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới như Trung Quốc, Na Uy, Nhật Bản. Các doanh nghiệp cần tiến hành khảo sát kỹ các hội chợ liên quan để có sự lựa chọn phù hợp. Khi đã quyết định tham gia trưng bày tại hội chợ nào thì nên tham gia đều đặn nhiều năm, vừa để giới thiệu các sản phẩm mới và tiếp cận với khách hàng mới, vừa để gặp gỡ khách hàng quen nhằm củng cố và tăng cường mối quan hệ. Các hiệp hội ngành nghề cần có sự hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lựa chọn hội chợ.

Tại hội chợ, các doanh nghiệp cũng không nên trưng bày tràn lan mà nên trưng bày những mẫu phù hợp với xu hướng tiêu dùng chung của thị trường và đại diện được cho khả năng sản xuất của doanh nghiệp về loại sản phẩm, chất lượng, tiêu chuẩn nguyên liệu, mẫu mã… Bên cạnh đó, để thu hút được nhiều khách hàng, nếu có nhiều gian hàng tham gia thì các doanh nghiệp nên tập trung các doanh nghiệp vào cùng một khu vực, đồng thời dành một phần kinh phí để quảng bá có hiệu quả bằng cách đăng tin hoặc quảng cáo trên các danh bạ hội chợ hoặc tạp chí chuyên ngành. Catalogue, quà tặng, các tài liệu giới thiệu cần được thiết kế, in ấn hay chế tác một cách chuyên nghiệp, có đủ những thông tin giao dịch và giới thiệu cần thiết. Việc thiết kế và dàn dựng gian hàng cũng cần được các doanh nghiệp chú trọng có thể học tập kinh nghiệm các doanh nghiệp nước ngoài trong quá trình tham gia hội chợ hoặc đầu tư kinh phí thuê công ty thiết kế chuyên nghiệp tại Nga.

Ngoài việc tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế tại Nga, Việt Nam cũng nên tích cực tổ chức định kỳ hội chợ quốc tế thuỷ sản Việt Nam. Mặt tích cực của việc tổ chức hội chợ tại sân nhà là số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tham gia rất đông đảo. Qua những hội chợ như vậy, sẽ có nhiều hơn những doanh nghiệp thuỷ sản có cơ hội giới thiệu những sản phẩm chất lượng của mình với những nhà nhập khẩu nước ngoài, trong đó có Nga.

Thứ ba, doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản trong nước với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài để mở rộng thị trường.


Mở rộng thị trường là một trong những mục tiêu then chốt quyết định thành công của các doanh nghiệp xuất khẩu khi tham gia vào nền thương mại tự do toàn cầu. Trong bối cảnh FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu được ký kết, thị trường ở Nga có nhiều cơ hội để các doanh nghiệp nắm bắt nhằm mở rộng và phát triển thị trường ở đây.

Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đa phần lại là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nên nếu chỉ hoạt động riêng lẻ thì khó có thể cạnh tranh được với hàng thủy sản của thị trường nội địa hay của các quốc gia khác. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần liên kết và hợp sức lại để nâng cao khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt trên thị trường Liên bang Nga. Các doanh nghiệp cần chung tay xây dựng thương hiệu thủy sản của Việt Nam; xây dựng mạng lưới thông tin giữa các doanh nghiệp nhằm chia sẻ các thông tin thị trường, cập nhật các quy định mới; tiêu chuẩn chất lượng, trao đổi với nhau những yêu cầu kỹ thuật và rào cản để cùng nhau tìm ra biện pháp ứng phó; liên kết để đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên, công nhân.

Mặt khác, bên cạnh việc liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp thủy sản tại Liên bang Nga. Các doanh nghiệp này là người nắm rõ và có thể cập nhật sớm nhất xu hướng thị trường cũng như các quy định về tiêu chuẩn chất lượng tại Liên bang Nga. Hợp tác với các doanh nghiệp Nga sẽ giúp các doanh nghiệp của Việt Nam nắm bắt được nhiều thông tin hơn và cũng có cơ hội hợp tác, mở rộng thị trường, đưa hàng thủy sản Việt Nam vào Nga qua nhiều kênh phân phối khác nhau.

Do hạn chế về tiềm lực kinh tế nên khi tham gia hội chợ triển lãm trên thị trường Nga, các doanh nghiệp nên hợp tác với nhau, cùng đóng góp kinh phí để giúp cho việc chuẩn bị và triển khai các chương trình giới thiệu, quảng bá của doanh nghiệp mình chuyên nghiệp và bài bản. Ngoài ra, các đối tác Liên bang Nga thường có đơn đặt hàng với giá trị khá lớn, trong khi năng lực sản xuất của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam vẫn còn hạn chế. Do vậy, sự liên kết nói trên giữa các doanh nghiệp là cần thiết để tránh tình trạng trong hội chợ, triển lãm, doanh nghiệp phải từ chối khách hàng vì không có đủ lượng hàng bán.


Thứ tư, doanh nghiệp xuất khẩu cần nâng cao chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu sang Liên bang Nga.

Các mặt hàng thực phẩm nói chung, trong đó có thủy sản rất nhạy cảm với yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, và chịu sự kiểm soát hết sức chặt chẽ của Cục kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga (VPSS). Nếu hàng Việt Nam không đảm bảo vệ sinh, không an toàn đối với sức khỏe người tiêu dùng thì rất khó có thể giũa được thị trường. Vì vậy chỉ có cách nâng cao và ổn định chất lượng sản phẩm, mới nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Nga.

Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của thị trường Liên bang Nga trong hoạt động sản xuất - xuất khẩu thuỷ sản: Thị trường Nga vốn có hệ thống tiêu chuẩn áp dụng cho mặt hàng thuỷ sản riêng và độc lập. Điều này, cũng có thể hiểu là việc các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam dù có đạt tiêu chuẩn của các thị trường lớn và khó tính như Hoa Kỳ, EU hay Nhật Bản đều không có nghĩa sẽ được phía Nga công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường của họ. Tuy vậy, việc áp dụng theo các quy chuẩn quốc tế cũng giúp các doanh nghiệp nâng cao được chất lượng thuỷ sản của mình và tạo điều kiện dễ đạt được tiêu chuẩn của Nga hơn.

Để đảm bảo thuỷ sản đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Liên bang Nga, không còn cách nào khác ngoài việc các doanh nghiệp phải tuân thủ theo hệ thống các quy định, tiêu chuẩn của Liên bang Nga. Hệ thống này bao gồm các tiêu chuẩn chi tiết về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, về vấn đề kiểm dịch và chất lượng, được quy định trong bản ghi nhớ hợp tác giữa Liên bang Nga và Việt Nam trong lĩnh vực đảm bảo an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu và tiêu chuẩn SANPIN 2.3.2.2804-10. Trong đó, vấn đề dư lượng thuốc kháng sinh và tỷ lệ mạ băng cao quá mức cho phép là những vấn đề mà các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất sang Liên bang Nga thường xuyên gặp phải. Đây cũng chính là nguyên nhân gây ra những lệnh cấm vận của Liên bang Nga đối với các loại thuỷ sản của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Điều này đã gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của thuỷ sản Việt Nam nói chung tại quốc gia này.

Để hỗ trợ cho việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn trên của các doanh nghiệp, ngành thuỷ sản cần phối hợp với các cơ quan chính phủ kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động sản xuất chế biến, đồng thời quản lý kháng sinh từ gốc nghập khẩu,


không để nhập khẩu hay buôn bán, sử dụng các hóa chất và kháng sinh bị cấm, không rõ nguồn gốc xuất xứ và có chế tài xử lý vi phạm khi phát hiện việc sử dụng các thuốc cấm, hóa chất bị cấm.

Các cơ sở sản xuất thủy sản phải kiểm soát chặt chẽ nguồn nguyên liệu trước khi đưa vào chế biến. Trước hết, doanh nghiệp cần kết hợp với ngư dân kiểm soát chặt các nguồn thức ăn công nghiệp, hướng dẫn ngư dân chọn thuốc chữa bệnh không có loại kháng sinh mà các cơ quản kiểm nghiệm cấm, buộc ngư dân cam kết không sử dụng các dược phẩm và thức ăn không an toàn. Trước khi đưa vào chế biến, nguyên liệu cần được kiểm tra lại. Trong khâu chế biến, việc quản lý vệ sinh an toàn cũng như vậy kiểm tra các loại phụ gia hóa chất dùng trong chế biến cần được tiến hành kỹ càng và thường xuyên. Hệ thống kho lạnh cần được nâng cấp bảo đảm hàng không bị nhiễm bẩn trong quá trình bảo quản. Khi hàng xuất kho, cần thông qua NAFIQAVED để kiểm tra và cấp giấy chứng nhận an toàn chất lượng. Nga vốn là thị trường hết sức nghiêm khắc nên việc áp dụng quy chuẩn này cần được các doanh nghiệp áp dụng một cách nghiêm túc và duy trì kể cả khi đã đủ điều kiện xuất khẩu vào thị trường Liên bang Nga. Chỉ có như vậy, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường này mới được duy trì và có cơ hội phát triển.

Xây dựng quy trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm: Hiện nay, truy nguyên nguồn gốc sản phẩm thực phẩm, kể cả thủy sản nuôi đang là yêu cầu thực tế. Những năm qua, yêu cầu pháp lý và yêu cầu của thị trường về truy nguyên nguồn gốc liên tục gia tăng và dự đoán còn tiếp tục tăng. Truy xuất nguồn gốc là hệ thống cho phép các đơn vị trong chuỗi cung ứng thực phẩm theo dõi, kiểm soát thực phẩm qua các công đoạn của quá trình sản xuất, chế biến và phân phối- tiêu thụ, sau đó ghi lại những thông tin cần thiết. Các thông tin có thể ghi trên giấy hoặc máy tính, nhưng việc trao đổi thông tin bắt buộc phải bằng điện tử thông qua một cơ sở dữ liệu trung tâm để bất kỳ lúc nào cũng có thể truy xuất nhằm cung cấp cho khách hàng hoặc cơ quan có thẩm quyền.

Đối với doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu Việt Nam, áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc có thể làm tăng chi phí, nhưng lợi ích thu lại cũng không nhỏ. Trước hết, nó giúp khách hàng tin tưởng hơn vào chất lượng và an toàn vệ sinh đối


với sản phẩm, qua đó, nâng cao uy tín trên thị trường. Thêm vào đó, nhờ hệ thống này mà doanh nghiệp có thể quản lý tốt chất lượng sản phẩm, từ khâu nuôi trồng, chế biến cho đến quá trình vận chuyển và phân phối. Nếu có sự cố về dịch bệnh, hoặc các dư lượng trong thực phẩm vượt quá tiêu chuẩn cho phép xảy ra, doanh nghiệp có thể xác định nguyên nhân một cách dễ dàng, biết ngay nó phát sinh ở khâu nào và từ đó có biện pháp giải quyết kịp thời nhằm tránh các thiệt hại, bảo đảm tính an toàn cho các thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Để xây dựng được hệ thống truy xuất nguồn gốc này, chúng ta nên hình thành các tổ chức liên kết ngang (giữa các nhà chế biến với nhau, giữa những người nuôi với nhau) và liên kết dọc (người nuôi – nhà sản xuất giống – nhà sản xuất thức ăn – thuốc thú y – nhà chế biến). Có sự liên kết bền vững giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu với người sản xuất nguyên liệu, dịch vụ hậu cần giúp kiểm soát tốt hơn các khâu trước chế biến cũng như trong toàn bộ quá trình chế biến.

Đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu: Con người là nguồn tài sản lớn nhất cho một doanh nghiệp. Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ động và tích cực nhất trong hoạt động xúc tiến xuất nhập khẩu. Bởi vậy, có một nguồn nhân lực tốt là một yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển và lớn mạnh của bất cứ doanh nghiệp nào.

Hiện nay, lực lượng cán bộ trong các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga còn nhiều hạn chế. Do tiếng Nga ở Việt Nam không phổ biến nhiều như các ngoại ngữ khác và đang dần bị thất thế, công tác đào tạo tiếng Nga, đặc biệt là tiếng Nga trong kinh tế nói chung và tiếng Nga trong chuyên ngành thủy sản nói riêng vẫn còn hạn chế khiến lực lượng cán bộ xuất nhập khẩu thành thạo tiếng Nga còn ít. Hơn nữa, vì chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế trong hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản nên họ còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ khi xây dựng và tiến hành các kế hoạch xúc tiến. Do vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa trong công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn trong công tác xuất nhập khẩu, cũng như ngoại ngữ và các kỹ năng mềm, kỹ năng quản lý khác.

Đặc biệt, các doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ và công nhân chế biến. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện


nay, để phát triển, ngoài có công nghệ tiên tiến, cần có một đội ngũ công nhân lành nghề, bởi tay nghề của họ là yếu tố ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng sản phẩm.Vì vậy, các doanh nghiệp cần tổ chức các khóa đào tạo cho công nhân chế biến nhằm nâng cao tay nghề, tăng năng suất lao động, qua đó nâng cao chất lượng cũng như sản lượng sản phẩm của doanh nghiệp.

Thứ năm, doanh nghiệp cần đa dạng hoá hàng thuỷ sản phù hợp với thị hiếu, sở thích người tiêu dùng Liên bang Nga.

Cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong thời gian qua chủ yếu chỉ tập trung vào một số mặt hàng truyền thống như: cá tra, cá khô, tôm, bạch tuộc. Điều này gây sự mất cân đối về cơ cấu sản phẩm, làm hạn chế kim ngạch xuất khẩu và hạn chế khả năng cạnh tranh của mặt hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Nga. Mặt khác, trong số những mặt hàng nêu trên, phần lớn là dạng sản phẩm sơ chế như thuỷ sản ướp lạnh, đông lạnh, khô/ướp muối. Trong khi đó, người tiêu dùng Nga đang có xu hướng tăng tiêu thụ những sản phẩm chế biến sẵn (hàm lượng chế biến cao) và nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng hoá về mặt sản phẩm).

Như vậy, để duy trì và phát triển hoạt động xuất khẩu của mình trên thị trường Nga, rõ ràng, các doanh nghiệp thuỷ sản phải cung cấp được những sản phẩm mà thị trường này cần chứ không đơn thuần dừng lại ở việc cung cấp những sản phẩm doanh nghiệp có. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải liên tục đổi mới sản phẩm về kích cỡ, màu sắc, cũng như đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải giảm dần tỷ trọng hàng nguyên liệu, sơ chế trong cơ cấu hàng xuất khẩu, đồng thời, tăng tỷ trọng các mặt hàng đã qua chế biến như phi lê, xông khói hay các sản phẩm chế biến sẵn, sản phẩm đóng hộp. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần đầu tư dây chuyền thiết bị, tăng cường năng lực công nghệ chế biến, cùng với đó, phải tích cực nghiên cứu cách thức chế biến cũng như đổi mới sáng tạo để tạo ra những mặt hàng chế biến mới lạ, hấp dẫn, vừa mang hương vị đặc trưng của Việt nam vừa hợp khẩu vị người tiêu dùng Nga. Khi thực hiện được điều này, giá cả sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu tăng lên là điều tất yếu, nhờ đó, các doanh nghiệp sẽ thu lại được nhiều giá trị hơn, góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước.

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 22/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí