Việt Nam có lợi thế về nguồn lao động rẻ, dồi dào, nhưng thực tế kỹ năng chuyên môn chưa cao. Nhà nước cần có những chính sách tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nhà nước cần chú trọng tổ chức các chương trình đạo tạo chuyên sâu về thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty thương mại có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Đồng thời phải chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực bao gồm việc đào tạo những nhà hoạch định chính sách như chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, đào tạo các chuyên gia về nghiệp vụ xuất nhập khẩu, về pháp luật thương mại quốc tế, về thị trường của từng ngành hàng như gạo, cà phê, cao su, dầu khí….
Hàng năm, Nhà nước cũng nên cử cán bộ sang học tập, nghiên cứu tại Australia để có được nhiều cán bộ thương mại giỏi ngoại ngữ và am hiểu về văn hoá các nước Australia, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán, ký kết hợp đồng, hợp tác liên doanh liên kết, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Australia.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ của các cán bộ thương mại, Nhà nước cần tăng cường tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật để có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi và có trình độ đồng đều..
Song song với đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta cần kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ kém phẩm chất, cán bộ không đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động quản lí thương mại.
2. Các giải pháp vi mô
2.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Hiệp định AANZFTA đi vào hiệu lực mở ra nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam đồng thời tạo ra nhiều sức ép cho doanh nghiệp. Bởi trong sân chơi FTA, việc tồn tại của các doanh nghiệp chủ yếu dựa trên sức cạnh tranh. Hiện tại, đa phần các doanh nghiệp Việt Nam phần đa đang có quy mô nhỏ, sức
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Trình Về Kiểm Dịch Động Thực Vật, Tiêu Chuẩn Và Quy Trình Đánh Giá Sự Phù Hợp
- Giải Pháp Phát Triển Quan Hệ Thương Mại Việt Nam – Australia Trong Thời Gian Tới
- Các Giải Pháp Thúc Đẩy Quan Hệ Thương Mại Hai Nước
- Đánh giá hiệu quả chương trình ODA của Hà Lan về phát triển cơ sở hạ tầng giai đoạn 2005-2009 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 13
- Đánh giá hiệu quả chương trình ODA của Hà Lan về phát triển cơ sở hạ tầng giai đoạn 2005-2009 và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
cạnh tranh không lớn. Để thâm nhập một cách có hiệu quả vào thị trường Australia cần có những biện pháp cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần nâng cao hơn nữa trình độ quản lý doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp xuất khẩu), nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu (đối với doanh nghiệp sản xuất) bằng cách xây dựng các kế hoạch như: đào tạo tích cực hơn nữa đội ngũ thợ lành nghề , có tri thức. Kiến thức chuyên môn và ngoại ngữ của cán bộ, nhân viên cũng cần được bổ sung và nâng cao, đảm bảo được sự thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu và triển khai áp dụng các hệ thống quản lí chất lượng hiện đại trong hoạt động của doanh nghiệp. Chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể các dịch vụ phục vụ trước trong và sau khi bán hàng. Lựa chọn các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm để tiến hành hiện đại hoá sớm. Xây dựng năng lực nắm bắt và phản ứng nhanh của doanh nghiệp trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu về thuế quan, chính sách ngoại thương và qui chế nhập khẩu của Australia để tìm ra cánh cửa mới cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Ngoài ra, còn cần phải nắm bắt thị hiếu tiêu dùng, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo thời gian giao hàng và duy trì chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tiến hành khảo sát, đánh giá thị trường, năng lực tài chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận dụng hiệu quả chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với những sản phẩm, ngành hàng nằm trong định hướng phát triển của cả nước trong giai đoạn tới để xác định cho mình chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, chiến lược phát triển mặt hàng xuất khẩu mới và chương trình cụ thể
tiếp cận các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng. Các doanh nghiệp có thể tìm hiểu đối tác của mình qua các Hiệp hội ngành nghề, báo chí về thương mại, các tổ chức hội chợ, các cơ quan nhà nước,địa phương, các trường dạy kinh doanh, các nhà chức trách ở các cảng biển, các website,…để phục vụ tốt nhất cho chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Ngoài ra, các doanh nghiệp phải có chính sách đối với việc tìm kiếm nguồn hàng và xúc tiến xuất khẩu để có thể chiếm lĩnh thị trường Australia. Ngoài việc chủ động nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải nâng cao năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường Australia như chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng qua các hội chợ, triến lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức tại Việt Nam hay tại Australia. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu và ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện những mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ tại thị trường Australia. Tăng cường đầu tư vốn và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất để cho ra đời các sản phẩm đó và thực hiện những hoạt động khuếch trương cần thiết.
2.2 Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Australia
Một trong những khó khăn trong quá trình xuất khẩu sang thị trường Australia của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu Việt Nam là năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn rất thấp. Các doanh nghiệp Việt Nam, do đó, muốn đứng vững tại thị trường Australia cần có các biện pháp nhằm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá sản phẩm, phát triển tiềm năng sản xuất và xuất khẩu và phải thâm nhập được vào thị trường Australia. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần có những biện pháp nhất định.
Người tiêu dùng Australia rất coi trọng vấn đề chất lượng sản phẩm, luôn đặt ra tiêu chí mua hàng là “ Giá cả tương ứng với giá trị”. Chính vì thế, để cạnh tranh với rất nhiều mặt hàng từ các nước khác, hàng hóa Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm bằng nhiều cách. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, loại bỏ dần các công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất thấp để nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài những nguồn đầu tư trong nước, thu hút và tận dụng một cách tối đa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc là vốn viện trợ chính thức (ODA) vào việc sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao nhằm tạo những sản phẩm có chất lượng tốt và đồng đều, có sức cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp nhất thiết phải áp dụng phương pháp quản lý chặt chẽ từ quản lý doanh nghiệp, quản lý quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO 9000 và các quy định của các cơ quan kiểm soát chất lượng của Mỹ đối với những mặt hàng mà mình tham gia kinh doanh. Thị trường Australia cũng yêu cầu rất khắt khe về vấn đề kiểm dịch. Chính vì thế các doanh nghiệp cần chú trọng kiểm tra các mặt hàng, đảm bảo tốt vấn đề kiểm dịch trước khi xuất sang thị trường này.
Một mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường Australia không chỉ tốt về chất lượng mà còn phải cạnh tranh về giá cả. Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Australia, các doanh nghiệp cần tận dụng đến mức tối đa các nguyên phụ liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể. Các doanh nghiệp cũng nên đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp: nhập khẩu các thiết bị nước ngoài, học tập các nguyên tắc thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam. Cùng lúc đó các doanh nghiệp Việt Nam nên mở rộng qui mô sản xuất
để có thể đáp ứng được những đơn hàng có khối lượng lớn. Trong điều kiện chưa thể mở rộng qui mô sản xuất ngay thì các doanh nghiệp hãy liên kết chặt chẽ , cùng nhau đáp ứng đơn hàng để không phải đi thuê gia công lại từ nước thứ ba, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Ở Australia, vấn đề bao bì rất được coi trọng. Hàng hóa có khả năng xuất khẩu sang Australia cao cần có bao bì đóng gói hàng bán lẻ với thông tin chi tiết, hấp dẫn và có chất lượng cao. Các doanh nghiệp Việt Nam trước giờ chỉ thường chú ý tới bao gói, nhãn mác và các tiêu chuẩn đối với những lô hàng đa kiện mà ít khi để ý tới bao bì của hàng bán lẻ, dẫn đến sức cạnh tranh thấp. Chính vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao chất lượng, mẫu mã của bao bì xuất khẩu sang Australia. Điều này có thể thực hiện đơn giản như nâng cao chất lượng túi poly hay in ấn trang trí bao bì theo mẫu mã mới.
Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng cần được cải thiện nếu doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, đồng thời làm gia tăng giá trị hàng xuất khẩu và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
2.3 Nâng cao hình ảnh sản phẩm, nhãn hiệu và thương hiệu
Hiện nay, mặc dù đạt kim ngạch xuất khẩu sang Australia khá cao nhưng hình ảnh và tên tuổi của các nhà xuất khẩu Việt Nam tại thị trường Australia vẫn còn khá trầm lắng, gần như nhà nhập khẩu Australia còn khá xa lạ với hàng hóa Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho mình thương hiệu hàng hóa nhất định nhằm tạo dựng uy tín cho doanh nghiệp cũng như đẩy mạnh việc buôn bán hàng hóa.
Doanh nghiệp cần chủ động đăng ký thương hiệu với các cơ quan chức năng để tránh bị các công ty, cá nhân khác lợi dụng và lấy cắp thương hiệu.
Các doanh nghiệp cũng cần chú trọng xây dựng uy tín, từ đó nâng cao uy tín của thương hiệu. Các nhà nhập khẩu Australia đạt mối quan tâm lớn đến khả năng sản xuất những sản phẩm có chất lượng ổn định, giao hàng đúng hạn và liên lạc đều đặn; đồng thời nhà cung cấp phải sẵn sàng chấp nhận những đơn đặt hàng có giá trị vừa phải. Khi xuất khẩu sang thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý nghiêm túc thực hiện các cam kết trong hợp đồng với khách hàng Australia nếu không sẽ dẫn tới các vụ kiện cáo phức tạp, gây ảnh hưởng tới uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam.
2.4 Tối đa hóa lợi ích của thương mại điện tử
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thương mại điện tử không còn xa lạ với các doanh nghiệp. Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang phát triển rất nhanh và tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trước hết, người bán và người mua được nối trực tiếp với nhau, không có hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương mại điện tử mà các doanh nghiệp giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển, đặc biệt là đối với hàng hóa là các ấn phẩm điện tử, giảm các loại chi phí khác như chi phí giao dịch… Dù mới làm quen với thương mại điện tử trong những năm gần đây nhưng các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết nhận thức được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này. Để đáp ứng với xu thế, các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị đầy đủ về vốn, ngoại ngữ cũng như các mặt các yếu tố về kỹ thuật công nghệ thông tin. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng hơn nữa, khai thác tối đa những lợi ích mà thương mại điện tử mang lại. Thông qua các sàn giao dịch B2B, các doanh nghiệp cần chủ
động liên hệ với các đối tác Australia, mở rộng thị trường mới, tạo dựng một mối quan hệ thân thiết với các bạn hàng, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
2.5 Thành lập các hiệp hội doanh nghiệp
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại phần lớn đang hoạt động nhỏ lẻ và riêng rẽ, thiếu tính quy mô. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng cho mình chiến lược mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh nghiệp, nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. Có nghĩa là cần tiếp tục cải tổ để tăng cường năng lực cho hệ thống doanh nghiệp. Tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, tạo môi trường tâm lý xã hội ủng hộ rộng rãi cho khu vực này phát triển. Hoàn thiện các cơ chế chính sách phát triển kinh tế tư nhân.
2.6 Nâng cao chất lượng con người trong hoạt động doanh nghiệp
Con người luôn là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại hai nước. Doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hoá và công nghiệp hoá nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó gián tiếp giảm chi phí hoạt động, có chính sách cụ thể về đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và thường xuyên đào tạo lại nguồn nhân lực; nhanh chóng tiếp cận và tiếp thu, áp dụng những kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp ở các nước phát triển.
Các doanh nghiệp cần chú trọng tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp. Nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, điều hành, quản lí doanh nghiệp nhất là nâng cao trình độ và kinh nghiệm kinh doanh của giám đốc. Các doanh nghiệp phải quan tâm đào tạo cả cán bộ quản lý và cán bộ thương mại, đào tạo lại và đào tạo chuyên sâu để có
một đội ngũ cán bộ giỏi. Đối với các cán bộ thương mại, phải chú trọng đồng thời cả lĩnh vực nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ vì kém ngoại ngữ thường rất khó thành công trong đàm phán và thường bị ở thế bất lợi trong giao dịch kinh doanh.
Đối với người lao động, cần đa dạng hoá kĩ năng cho người lao động và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động với các khâu hoạt động của doanh nghiệp khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Tổ chức hoạt động đào tạo lao động tại chỗ, nâng cao khả năng thích ứng lao động với tính chuyên biệt về công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời giảm được khâu tuyển dụng và thử tay nghề của lao động từ nơi khác đến.
Việc đào tạo cán bộ và người lao động cần phải được kiểm tra định kỳ để đảm bảo được hiệu quả và có những thay đổi thích hợp.
3. Các giải pháp cho một số mặt hàng cụ thể.
3.1 Hàng thủy sản
Thiên nhiên đã cho Việt Nam nhiều khả năng phát triển ngành thuỷ sản. Nằm trải dài hơn 3.200km đường bờ biển nhiệt đới có trữ lượng hải sản lớn và đa dạng, với hơn 4.000 hòn đảo lớn nhỏ cùng hệ thống sông ngòi dày đặc, hàng vạn hécta đầm phá, hàng trăm nghìn hecta rừng ngập mặn, cửa sông ven biển... thuỷ sản thực sự là một lợi thế của nước ta. Vì vậy cần có những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này.
Khó khăn chủ yếu mà các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản đang gặp phải là áp lực từ các hành vi bảo hộ thương mại, các hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch chặt chẽ và thường xuyên ban hành các tiêu chuẩn mới hơn về dư lượng kháng sinh và an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước nhập khẩu. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản hiện nay đang thiếu nguyên liệu trong nước để sản xuất trong khi thuế nhập khẩu ở mức cao 10% - 20%, hầu hết các nhà máy chế biến thủy sản chỉ hoạt động được khoảng 70% công suất do thiếu