Thực Trạng Hoạt Động Marketing Quốc Gia Trong Lĩnh Vực Xuất Khẩu Hàng Hoá Ở Việt Nam Giai Đoạn Từ 2006 Đến 2010‌‌

1.3.1. Xác định tầm nhìn, mục tiêu phát triển‌


Đây là bước đầu tiên trong quá trình hoạch định chiến lược marketing, tức là chúng ta xem xét sự thay đổi của môi trường vĩ mô trong một giai đoạn nhất định, nắm bắt mục tiêu cần đạt được của giai đoạn đó. Những vấn đề ảnh hưởng tới xuất khẩu chúng ta cần xem xét như: thay đổi về môi trường chính trị, chính sách kinh tế quốc gia; thay đổi thị hiếu tiêu dùng của thị trường trong và ngoài nước, thay đổi trong cơ cấu dân cư, cơ cấu tiêu dùng; sự xuất hiện của sản phẩm mới, sản phẩm thay thế; hay như xem xét về thay đổi do biến động của môi trường. Chúng ta cũng cần phải biết rõ được mục tiêu xuất khẩu trong giai đoạn đó như thế nào. Khi đã xác định được đúng tầm nhìn và mục tiêu phát triển xuất khẩu, phát triển đất nước, chúng ta sẽ có định hướng đúng để hình thành nên chiến lược marketing trong cả ngắn hạn và dài hạn cho đất nước mình. Đây là bước khởi đầu nhưng lại vô cùng quan trọng bởi nếu xác định sai, chiến lược marketing sẽ thất bại.

1.3.2. Nhận diện địa phương


Bước thứ hai trong quá trình hoạch định chiến lược marketing quốc gia đó là nhận diện địa phương. Chúng ta không thể lập được một kế hoạch marketing tốt, không thể tiếp thị được cho hình ảnh quốc gia nếu chúng ta hoàn toàn không biết quốc gia mình như thế nào. Nhận diện địa phương là xem xét hiện trạng, điểm mạnh và điểm yếu của quốc gia trên các phương diện như: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội, lịch sử văn hóa, các đặc trưng của quốc gia và tình hình hoạt động kinh tế của đất nước. Tìm hiểu những vấn đề này, chúng ta sẽ biết đất nước mình đang đứng ở đâu, có lợi thế nào để phát triển, điểm mạnh nào cần phát huy cũng như điểm yếu nào cần khắc phục. Nhận diện địa phương cũng như là việc “biết mình, biết ta”. Điều này sẽ giúp chúng ta đi đúng hướng và đề ra được chiến lược marketing phù hợp cho quốc gia từng thời kỳ.

1.3.3. Thẩm định địa phương


Sau khi nhận diện địa phương, chúng ta biết được điểm mạnh và điểm yếu của quốc gia thì “thẩm định địa phương” là bước đánh giá điểm mạnh, điểm yếu đó và phân tích các yếu tố cấu thành nên năng lực của quốc gia. Định kỳ, chúng ta phải đánh giá những điểm mạnh và điểm yếu của mình, từ đó mới nhận diện được cơ hội và hành động để biến cho cơ hội đó thành kết quả trong phát triển kinh tế của đất nước. Thêm vào đó, chúng ta phải phân tích được các yếu tố cấu thành nên năng lực của quốc gia để có thể tác động đúng chỗ, đúng đối tượng, giúp đẩy mạnh sản xuất và kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu. Có 5 yếu tố cấu thành nên năng lực quốc gia gồm:

Nền văn hóa, các quan điểm, các giá trị của quốc gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.


Văn hóa khác nhau, quan điểm và giá trị dân tộc khác nhau sẽ dẫn tới thành quả kinh tế khác nhau. Ví dụ như, vào giai đoạn những năm 70 hay 80 của thế kỷ XX, Việt Nam thực hiện đóng cửa nền kinh tế dẫn tới kinh tế nước ta trì trệ, ì ạch không lối thoát. Giao thương buôn bán với nước ngoài hầu như không có, dẫn tới xuất khẩu của nước ta không có cơ hội để phát triển. Trong khi đó, Trung Quốc, dù cũng tuyên bố theo con đường chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, nhưng do thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế nên đã có những bước phát triển nhanh chóng, xuất khẩu đạt được những thành tựu vượt bậc. Nền kinh tế chuyển từ hướng nội sang hướng ngoại - đó là quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Như vậy, đối với chính quyền, cộng đồng dân cư và doanh nghiệp, việc thay đổi quan điểm cũng như các giá trị cần phải đòi hỏi sự nhất trí cao và lâu dài thì nền kinh tế nói chung, xuất khẩu nói riêng mới có thể phát triển ổn định được.

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa thông qua marketing địa phương - 5

Sự cố kết xã hội của quốc gia


Tìm hiểu sự cố kết xã hội là tìm hiểu về các tầng lớp xã hội, về sự khác biệt văn hóa, tôn giáo và sự gắn kết giữa những nhóm người đó trong quốc

gia. Nhận biết được điều này và tìm cách đoàn kết họ lại sẽ làm cho chiến lược marketing quốc gia thành công trong việc tạo ra một chu trình sản xuất và xuất khẩu liên hoàn cũng như tạo ra của cải cho đất nước.

Các nguồn lực sẵn có của nền kinh tế quốc gia


Các nguồn lực sẵn có có thể là sự phong phú của nguồn tài nguyên thiên nhiên, dồi dào về nguồn nhân lực, quy mô và kết cấu dân số hay cơ sở hạ tầng. Những nguồn lực này là yếu tố góp phần làm tăng hay giảm năng lực của quốc gia cũng còn tùy từng quan điểm và nhìn chung cái nào cũng có hai mặt. Chính vì vậy, cần xem xét và đánh giá đầy đủ cả hai mặt tác động này đến xuất khẩu hàng hóa cũng như đối với nền kinh tế- xã hội của nước ta.

Tổ chức ngành


Đây là yếu tố chủ yếu cho việc thẩm định khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Tổ chức ngành càng chặt chẽ bao nhiêu thì sẽ tạo nên một khối sức mạnh càng lớn bấy nhiêu cho nền kinh tế. Chúng ta có thể thấy Nhật Bản là một ví dụ điển hình trong trường hợp này. Ở Nhật Bản, các tập đoàn kinh tế lớn liên kết chặt chẽ với nhau trong việc mua bán, từ đó tạo nên rào cản ngăn chặn hàng nhập khẩu và nước ngoài xâm nhập vào thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu cho đất nước. Hay như Hàn Quốc nhờ xây dựng được các chaebol công nghiệp mà đã tạo nên những thành công thần kỳ cho nền kinh tế nước này.

Sự lãnh đạo của cơ quan Nhà nước và Chính phủ


Tầm nhìn của các nhà lãnh đạo có tác động rất lớn tới lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, tới sự thành công hay không của nền kinh tế đất nước. Chính phủ tạo ra các chính sách cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, duy trì và phát triển nền kinh tế. Kinh nghiệm thành công của các quốc gia trong khu vực cho thấy rằng đất nước nào có bộ máy quản lý nhà

nước ưu tú thì sẽ điều hành tốt nền kinh tế - xã hội. Hơn nữa, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ và doanh nghiệp trong xây dựng chính sách thì các chính sách đó mới được hiện thực hóa nhanh chóng và hiệu quả. Các vấn đề liên quan đến chính quyền như: nạn tham nhũng, thủ tục hành chính nhiều tầng, phân bổ sai lầm các nguồn lực, bất ổn chính trị sẽ cản trở các nhà đầu tư, gây mất thời gian, tiền bạc và công sức cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, từ đó khiến cho nền kinh tế cũng như xã hội khó mà phát triển được.

Cả năm yếu tố này có mối quan hệ tác động qua lại nhau hình thành nên năng lực của quốc gia đó. (Sơ đồ 1)

Sơ đồ 1: Năng lực của quốc gia


Sự lãnh đạo của

chính quyền

Nền văn hóa, các

quan điểm, các giá trị của địa phương

Các nguồn lực sản

xuất sẵn có

Sự kết cố xã hội

của quốc gia

Tổ chức ngành của

quốc gia

(Nguồn: Slide môn "Marketing địa phương" của Cô Nguyễn Thị Phương Loan, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.)

1.3.4. Xây dựng chiến lược marketing quốc gia


Đây là bước cuối cùng trong quá trình hoạch định chiến lược marketing quốc gia. Trong khi xây dựng chiến lược marketing quốc gia cần chú ý một số vấn đề như: chiến lược marketing quốc gia phải phù hợp với mục tiêu và tầm nhìn của quốc gia đó trong cả ngắn hạn và dài hạn; trong quá trình xây dựng chiến lược marketing quốc gia cần phải quan tâm tới cả vấn đề cạnh tranh giữa các nước giai đoạn hiện nay để có chiến lược marketing khôn khéo, có lợi cho quốc gia mình nhiều nhất. Hoàn thành bước này, chúng ta sẽ có một chiến lược marketing cho quốc gia mình nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hiệu quả nhất.

Như vậy, chương một đã đề cập tới hệ thống lý luận về marketing quốc gia cũng như vai trò của marketing quốc gia trong việc đẩy mạnh xuất khẩu. Ngày nay, các nước trên thế giới và Việt Nam đang thực hiện chiến lược marketing quốc gia ngày một tích cực hơn. Bốn chiến lược marketing quốc gia: marketing hình tượng, marketing điểm hấp dẫn, marketing cơ sở hạ tầng và marketing con người cũng đã được chú trọng thực hiện ở nước ta giai đoạn qua. Chương tiếp theo sẽ tập trung tìm hiểu và phân tích hoạt động marketing quốc gia trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa dựa trên bốn chiến lược marketing trên. Chương hai cũng đi sâu phân tích hoạt động marketing quốc gia trong một số ngành xuất khẩu chủ yếu của nước ta trong giai đoạn 2006 – 2010 đồng thời nêu một số đánh giá, nhận xét chung về thực trạng hoạt động marketing quốc gia của Việt Nam và tác động của nó đối với xuất khẩu.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING QUỐC GIA TRONG LĨNH VỰC XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2006 ĐẾN 2010‌‌

2.1. Chiến lược marketing quốc gia trong trong giai đoạn 2006- 2010


2.1.1. Tầm nhìn, mục tiêu phát triển


Mục tiêu chung


Trong giai đoạn 2006-2010, Đảng và Nhà nước ta chủ trương vẫn giữ vững ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết thông qua Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010. Sau đó, Chính phủ ban hành Chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết trên xác định mục tiêu về kinh tế, chính trị và xã hội rất rõ.15

Về kinh tế, Chương trình hành động có nêu ra mục tiêu là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế; nâng cao hiệu quả, tính bền vững và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trước hết, cần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp; phát triển bền vững các ngành nghề truyền thống đồng thời gắn với việc bảo vệ môi trường; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Chính phủ cũng đề ra rằng cần tập trung nguồn lực phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển. Thêm vào đó, cần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của khu vực công nghiệp bằng cách: phát triển ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động; khuyến khích đầu tư phát triển các ngành sản xuất nguyên vật liệu quan trọng, công nghệ cao, công nghệ thông tin; chú


15 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, 17/10/2006, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần 2006 – 2010, http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ke-hoach-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2006-2010/40167540/157/.

trọng phát triển các ngành nghề truyền thống; quy hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong giai đoạn 2006-2010, Việt Nam phải chủ động và tạo bước ngoặt trong hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Nhà nước chủ trương đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xuất khẩu; tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có nhiều giá trị tăng thêm, hàm lượng công nghệ và sức cạnh tranh cao, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao sức cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, phát triển thị trường, xây dựng và bảo vệ thương hiệu.


Về chính trị - xã hội, bản kế hoạch nêu lên đó là duy trì ổn định chính trị- xã hội, phát triển giáo dục, y tế; tạo công ăn việc làm cho người dân; bảo vệ môi trường; đảm bảo an ninh quốc phòng; chống lãng phí và nạn tham nhũng.


Mục tiêu xuất khẩu


Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về phê duyệt "Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010"16 được ban hành ngày 30/06/2006 có nêu lên quan điểm nước ta về phát triển lĩnh vực xuất khẩu đó là: thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nhằm góp phần tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất và thu hút lao động; Khuyến khích, huy động mọi nguồn

lực của các thành phần kinh tế và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, từng bước tạo ra các sản phẩm có thương hiệu đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.


Về mục tiêu tổng quát, Nhà nước ta chủ trương phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất các



16 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, 30/06/2006, Phê duyệt Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, http://luat.xalo.vn/phap-luat/Quyet-dinh/176957894/Phe-duyet-De-an-Phat-trien-xuat-khau-giai- doan-2006-2010.html.

mặt hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có khả năng chiếm lĩnh thị phần đáng kể trên thị trường thế giới. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô; đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ.


Trong giai đoạn này, mục tiêu cụ thể trong lĩnh vực xuất khẩu là phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 17,5%/năm và đến năm 2010 đạt khoảng 72,5 tỷ USD. Đến năm 2010, xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm - thuỷ sản chiếm khoảng 13,7%, nhóm hàng nhiên liệu – khoáng sản chiếm khoảng 9,6%, nhóm hàng công nghiệp và công nghệ cao chiếm khoảng 54,0% và nhóm hàng hoá khác chiếm 22,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá.


2.1.2. Nhận diện địa phương


Trong phần này, tác giả chỉ để cập đến vấn đề nhận diện địa phương đối với lĩnh vực phát triển xuất khẩu.

Điểm mạnh


Về điều kiện tự nhiên, nước ta có điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi để sản xuất các mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Là đất nước có khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, có bờ biển dài, địa hình đa dạng gồm cả núi, cao nguyên, đồng bằng. Việt Nam có nhiều sông ngòi, "có đường bờ biển dài 3.260 km"17 rất thuận lợi để nước ta phát triển các ngành kinh tế biển như nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy hải sản. Phần biển Đông của Việt Nam còn là con đường giao lưu hàng hải quốc tế, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nên việc giao thương buôn bán với nước ngoài rất thuận tiện. Nước ta có nhiều


17 Cổng thông tin điện tử Chính Phủ, 20/01/2010, Quy hoạch tuyến đường bộ ven biển Việt Nam,

http://www.baomoi.com/Info/Quy-hoach-tuyen-duong-bo-ven-bien-Viet-Nam/148/3773570.epi.

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí