3.2.2. Đề xuất giải pháp đối với doanh nghiệp xuất khẩu
3.2.2.1. Các giải pháp đẩy mạnh tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga
Thứ nhất, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Liên bang Nga cần xây dựng kế hoạch tiếp cận thị trường cụ thể, nâng cao chất lượng của các hoạt động thu thập thông tin thị trường. Các doanh nghiệp cần có kế hoạch cụ thể về tiếp cận thị trường, thu thập và xử lý thông tin về tình hình cung cầu của các mặt hàng xuất khẩu khác nhau ở thị trường trong và ngoài nước, thông tin về các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, thông tin về giá cả, thông tin về chính sách của nhà nước và của nước ngoài đối với các mặt hàng xuất khẩu. Khi có đầy đủ thông tin thì các quyết định kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng của doanh nghiệp sẽ chính xác hơn, đồng thời là cơ sở để doanh nghiệp có thể nghiên cứu và áp dụng marketing mix phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp.
Một trong những khó khăn từ phía doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Liên bang Nga là khả năng hiểu biết thị trường Liên bang Nga còn hạn chế. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm, đặc biệt là một số vấn đề cơ bản như: hệ thống chính trị, luật pháp, luật thương mại; có như vậy chúng ta mới nắm vững những đặc điểm khác biệt giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Một nội dung khác mà các doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư thời gian và kinh phí để tìm hiểu sâu hơn, đó là nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của người dân Nga, làm cơ sở để có được nhận định, đánh giá có tính chính xác hơn về triển vọng và định hướng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này.
Các doanh nghiệp cần phát triển hệ thống thông tin thị trường xuất khẩu, tổ chức tốt công tác thu thập, xử lý thông tin và xúc tiến thương mại. Bí quyết bảo đảm sức mạnh kinh doanh của doanh nghiệp trước hết là thông tin. Thông tin chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và cho thành công của doanh nghiệp. Cả thị trường trong nước và thị trường thế giới đều tác động trực tiếp đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp.
Có thể thấy, ngoài vấn đề về thuế quan và hàng rào phi thuế quan, việc thiếu thông tin và tâm lý e ngại, thiếu chủ động là một trong những nguyên nhân khiến
quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga chưa xứng với tiềm năng thực sự của cả hai bên. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không có đầu mối giao dịch thương mại tập trung ổn định tại thị trường Liên bang Nga. Việc đặt văn phòng đại diện, mở rộng kinh doanh tại thị trường này cũng còn vướng một số vấn đề về thủ tục pháp lý phức tạp. Số lượng doanh nghiệp Việt Nam có văn phòng đại diện tại Nga chưa nhiều sẽ dẫn đến những hạn chế nhất định trong việc theo dõi, nắm vững những biến đổi nhu cầu của người tiêu dùng để kịp thời có điều chỉnh và chiến lược phù hợp.
Nhìn chung các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng để đưa ra chiến lược phát triển sản phẩm, chiến lược thâm nhập thị trường và các chiến lược marketing khác một cách hiệu quả, nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm, tạo vị thế vững chắc trên thị trường Liên bang Nga.
Có thể bạn quan tâm!
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Mực Và Bạch Tuộc Của Việt Nam Sang Liên Bang Nga Trong Giai Đoạn 2013 – 2020
- Triển Vọng Và Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Hàng Hoá Việt Nam Sang Thị Trường Liên Bang Nga Trong Bối Cảnh Thực Thi Fta Việt Nam – Liên Minh Kinh Tế
- Đề Xuất Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Hàng Hóa Việt Nam Sang Thị Trường Liên Bang Nga Trong Bối Cảnh Fta Việt Nam – Liên Minh Kinh Tế Á-Âu
- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 17
- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 18
- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 19
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
Thứ hai, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Liên bang Nga cần tận dụng triệt để hơn nữa các ưu đãi mà FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu mang lại.
Để tận dụng những cơ hội trong bối cảnh FTA Việt Nam –Liên minh kinh tế Á-Âu có hiệu lực, bên cạnh việc nắm bắt cơ hội và hoạt động từ phía chính phủ, các doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động đi vào thị trường Liên bang Nga, nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thông tin các doanh nghiệp, đối tác tiềm năng. Ngoài ra, khi nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng cần lưu ý phân biệt sở thích tiêu dùng ở các vùng miền khác nhau của mỗi quốc gia để định vị sản phẩm xuất khẩu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần tăng trưởng các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư tham gia các hội thảo, hội chợ triển lãm và tìm kiếm đối tác nhập khẩu để tăng mạnh xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga. Tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại thông qua Tham tán thương mại, Hiệp hội thương mại, các nhà bán buôn…, chú trọng ứng dụng thương mại điện tử trong tất cả các hoạt động xúc tiến thương mại như sử dụng website tiếng bản địa để quảng bá sản phẩm, mua bán qua mạng để tận dụng cơ hội giới thiệu sản phẩm, tiết kiệm chi phí giao dịch.
3.2.2.2. Các giải pháp nâng cao thị phần hàng hóa xuất khẩu Việt Nam tại thị trường Liên bang Nga
Các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng cần nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của mình để tránh những tác động không mong muốn từ việc các nguồn cung hàng hóa nhập khẩu vào Liên bang Nga sẽ tăng mạnh trong thời gian tới.
Mặc dù Liên bang Nga là thị trường không quá khó tính như thị trường Mỹ, EU hay Nhật Bản nhưng đối thủ cạnh tranh thì rất nhiều và mạnh, nếu chủ quan không nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa thì việc bị đẩy ra khỏi thị trường là rất dễ hiểu. Ngoài chất lượng hàng hóa còn có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng tới sức cạnh tranh đối với mặt hàng nông sản của Việt Nam như mẫu mã, kiểu dáng, giá cả
… Vì thế, các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với thị trường tiêu thụ này, không ngừng cải tiến và nâng cao cạnh tranh cho hàng hóa của mình.
Trước hết, về giá cả hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga, từ khi FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu chính thức có hiệu lực, giá cả hàng hóa của Việt Nam vào thị trường này sẽ giảm tương đối nhiều do thuế nhập khẩu được cắt giảm khá mạnh. Tuy nhiên, do khoảng cách địa lý xa xôi, chi phí vận chuyển lớn đẩy giá hàng hóa lên cao. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phối hợp với các dịch vụ vận tải, tìm cách giảm thiểu chi phí trung gian và thời gian vận chuyển hàng hóa. Phương tiện vận chuyển hàng hóa cần được tính toán kỹ lưỡng. Hiện nay, hàng hóa chủ yếu được chuyên chở bằng container khá thuận tiện nhưng chi phí tương đối cao, để giảm chi phí, các doanh nghiệp có thể đẩy mạnh việc áp dụng vận tải đa phương thức, liên kết thành lập công ty vận tải biển chuyên chở hàng hóa khối lượng lớn sang Liên bang Nga cũng như vận chuyển hàng hóa theo chiều ngược lại, tạo điều kiện đẩy mạnh thương mại hai chiều.
Tiếp đó, về bao bì đóng gói, các doanh nghiệp lớn phân phối sản phẩm ở Liên bang Nga chỉ yêu cầu các sản phẩm có đóng gói rất đơn giản, nhưng phải cung cấp đúng, đủ và kịp thời. Tuy nhiên, để đảm bảo tính cạnh tranh, các doanh nghiệp khi tiến hành đóng gói sản phẩm, bao bì nên có màu sắc bắt mắt và tiện dụng (trên đó phải có phần hướng dẫn bằng tiếng địa phương, thể hiện những thông tin rõ ràng, cụ
thể về giá trị dinh dưỡng, lợi ích của sản phẩm). Đặc biệt, các doanh nghiệp nên chú ý vấn đề nhãn hiệu, bảo vệ thương hiệu cho sản phẩm của mình khi vào thị trường này để tránh những thiệt hại đáng tiếc nếu bị mất thương hiệu.
Sau cùng, doanh nghiệp cần triển khai áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế đối với các sản phẩm xuất khẩu: đầu tư cho nghiên cứu, xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đối với hàng hóa xuất khẩu. Xây dựng năng lực của tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ việc đánh giá sự phù hợp các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu chuẩn riêng đối với hàng hóa xuất khẩu. Doanh nghiệp cần thực hiện các chương trình đào tạo mới, đào tạo lại, đổi mới chất lượng nguồn nhân lực doanh nghiệp, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ, năng lực xử lý và tác nghiệp các tình huống kinh doanh.
3.2.2.3. Các giải pháp chuyển dịch cơ cấu hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Liên bang Nga
Đầu tiên, các doanh nghiệp xuất khẩu cần tiếp tục tập trung đầu tư vào các ngành hàng, mặt hàng có lợi thế cạnh tranh và được hưởng nhiều ưu đãi từ FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu. Các ngành hàng có nhiều lợi thế ưu đãi, đặc biệt là các lợi thế sẵn có về tài nguyên, chi phí lao động, hàm lượng lao động như nông sản, dệt may, giày dép. Việc tiếp tục tập trung vào các ngành hàng này một mặt sẽ giữ vững đà tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu nhưng bên cạnh đó cũng là giai đoạn tích lũy vốn để chuẩn bị cho việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu trong các giai đoạn tiếp theo.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu, phát triển và tăng cường áp dụng khoa học công nghệ vào toàn bộ quá trình sản xuất, xuất khẩu hàng hóa. Các chính sách thúc đẩy đầu tư và ứng dụng công nghệ cần nhắm vào hai mục tiêu: Một là cải thiện năng lực công nghệ từ phía cung, có thể do bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu đầu tư cải tiến, hoặc tiếp nhận từ các cơ sở chuyên nghiên cứu và phát triển, hoặc nhận chuyển giao công nghệ; và hai là nâng cao khả năng hấp thụ của các doanh nghiệp xuất khẩu ứng dụng công nghệ.
Thứ ba, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu: Thay đổi tư duy trong sản xuất, tập trung tạo ra giá trị gia tăng và sự khác biệt cho sản phẩm, tránh việc sản xuất đại trà các mặt hàng có giá trị thấp; chủ động tận dụng các chính sách ưu đãi, lợi thế cạnh tranh do FTA Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu mang lại, đồng thời phải có chiến lược tiếp cận các tập đoàn xuyên quốc gia, tập đoàn đa quốc gia để tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đó.
3.2.3. Một số giải pháp cụ thể cho các ngành hàng chủ lực
3.2.3.1. Đối với xuất khẩu nông sản
Thứ nhất, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Liên bang Nga cần nâng cao chất lượng hàng nông sản. Đây là một trong những vấn đề cốt lõi trong chiến lược xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Cụ thể, doanh nghiệp cần đầu tư xây dựng tốt hạ tầng kỹ thuật. Trước đây, thị trường Liên bang Nga được đánh giá là một thị trường dễ tính, người tiêu dùng không quá cầu kì về mẫu mã, kiểu dáng. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ trên toàn thị trường quốc tế, người tiêu dùng tại thị trường này có xu hướng yêu thích và sử dụng hàng hóa có chất lượng cao với mẫu mã đẹp mắt, đa dạng. Vì thế, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản vào Liên bang Nga cần chú trọng hơn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như mẫu mã kiểu dáng. Để có thể nâng cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp phải chú ý ngay từ khâu lựa chọn giống cho tới quy trình chăm sóc, thu hái, chế biến và bảo quản. Để có thể làm được điều đó, doanh nghiệp phải thực hiện các công việc sau:
- Các doanh nghiệp xuất khẩu cần hỗ trợ vốn, kỹ thuật, giống mới cho các nhà sản xuất để họ có đủ điều kiện tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt. Hầu hết các nhà sản xuất nông sản của Việt Nam có kinh nghiệm chăm sóc cây trồng nhưng đều thiếu vốn, kỹ thuật, giống mới. Do đó, các sản phẩm đầu ra thường có năng suất thấp, chất lượng không cao. Vì vậy, để có được những sản phẩm có chất lượng tốt, đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư ngay vào khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần đầu tư xây dựng hệ thống kho, nhà máy chế biến với trang thiết bị, máy móc hiện đại, tiên tiến vào khâu chế biến, bảo quản hàng hóa nhằm từng bước tiến tới xuất khẩu hàng tinh thay cho hàng thô vào
thị trường quốc tế. Thêm vào đó, doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, các phòng kiểm nghiệm đánh giá chất lượng sản phẩm nông sản.
Việc đánh giá chất lượng của bất kỳ sản phẩm nào đều căn cứ trên mức độ đạt tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm đó. Để có thể thâm nhập được vào thị trường Liên bang Nga thì hàng nông sản Việt Nam cần phải vượt qua tất cả những rào cản về tiêu chuẩn chất lượng của thị trường này. Điều này đòi hỏi từ phía Nhà nước cần sớm hoàn chỉnh hệ thống chính sách quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế để các doanh nghiệp cũng như người sản xuất lấy đó làm mục tiêu phấn đấu trong quá trình sản xuất kinh doanh, điều đó bao gồm việc xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn chất lượng chặt chẽ kèm theo các phòng kiểm nghiệm hiện đại để có thể đánh giá chất lượng một cách chính xác.
Nhà nước xây dựng các tiêu chuẩn trên, tuy nhiên đó chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ để có thể thực hiện mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp sạch vẫn nằm ở khâu sản xuất và bản thân sản phẩm. Một nền nông nghiệp sạch không chỉ dừng lại ở việc sản xuất sản phẩm sạch, đảm bảo dinh dưỡng, không gây tác hại cho người sử dụng, mà còn phải an toàn với nhà sản xuất, không làm suy thoái, ô nhiễm môi trường sinh thái. Muốn vậy các cơ quan chức năng cần tăng cường năng lực kiểm tra, giám sát xuyên suốt quá trình sản xuất nông sản: từ việc thu mua nguyên liệu đến khẩu đóng gói, xuất khẩu, đặc biệt lưu ý thắt chặt kiểm soát đối với các vùng sản xuất mắc phải dịch bệnh. Kèm theo đó là thắt chặt thể chế, thiết lập hệ thống các biện pháp xử lý nghiêm ngặt đối với các trường hợp cố tình vi phạm, áp dụng kỹ thuật nuôi trồng có hại, sử dụng các sản phẩm có thành phần bị cấm.
Về kiểm soát chất lượng hàng nông sản, đối với mỗi lô hàng xuất khẩu, các công ty thương mại ngoài việc thực hiện đăng ký kiểm tra, chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm nông sản xuất khẩu theo quy định, còn phải cung cấp bổ sung hợp đồng mua bán lô hàng giữa chủ hàng và cơ sở sản xuất lô hàng, trong đó thể hiện rõ trách nhiệm đối với việc thực hiện các biện pháp xử lý của cơ quan kiểm tra trong trường hợp lô hàng bị cơ quan thẩm quyền nước nhập khẩu cảnh báo hoặc cơ quan kiểm tra phát hiện vi phạm quy định về kiểm tra, chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm hoặc giấy tờ ủy quyền của chủ hàng.
Như vậy doanh nghiệp bắt buộc phải làm tốt và chấp hành nghiêm túc ngay từ khâu đầu tiên cho đến bước cuối cùng. Tuy nhiên, để có thể triển khai một cách đồng bộ, quản lý doanh nghiệp phải nhanh chóng nâng cao nhận thức cho người dân và người lao động trong doanh nghiệp. Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo nội bộ doanh nghiệp, trình bày rõ thực trạng sản xuất, triển khai công việc hiện tại trong công ty như tình hình sử dụng hóa chất, ô nhiễm sinh thái, phân tích những cái lợi nhỏ bé trước mắt và mức độ thiệt hại nặng nề lâu dài của các hành động vi phạm, đề ra các biện pháp xử lý nghiêm ngặt răn đe, đồng thời cũng nên tranh thủ ý kiến của toàn công ty, đề xuất các giải giải pháp quản lý và kỹ thuật hạn chế ô nhiễm do sản xuất các mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Ngoài ra, để hạn chế tình trạng đối tác chưa có sự tin tưởng vào doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp có thể phấn đấu tổ chức một quy trình hoàn chỉnh kiểm định chất lượng hàng hóa ngay từ khâu nuôi trồng chế biến ra sản phẩm với sự giám sát của chính chuyên gia của nước đối tác hoặc từ một tổ chức thứ ba hoặc chính là người kiểm tra của công ty nhập khẩu. Hiện nay đã có một số công ty làm như vậy và đạt được hiệu quả cao.
Thứ hai, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần tích cực, chủ động tìm hiểu thông tin và đối tác tại thị trường Liên bang Nga.
Thứ ba, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần chủ động tìm hiểu và khai thác tối đa lợi thế dành cho mặt hàng nông sản từ các quy định trong FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu.
Trước hết, muốn tận dụng tốt những cơ hội của FTA Việt Nam –Liên minh kinh tế Á-Âu đối với hoạt động xuất khẩu nông sản, các doanh nghiệp cần phải nắm rõ tất cả các quy tắc, quy định của Hiệp định có liên quan tới hàng nông sản bao gồm các nội dung có liên quan tới những cam kết về cắt giảm thuế quan, thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ, tính hiệu lực, pháp lý…chẳng hạn, những quy định tại thông tư của Bộ Tài chính về biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam, hay thông tư của Bộ Công Thương về quy tắc xuất xứ.
Với việc nắm rõ các quy định và hiểu được các nguyên tắc trong FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu, các doanh nghiệp mới có thể bắt đầu tiến hành lập
kế hoạch, chiến lược, sản xuất, chế biến, đóng gói và xuất khẩu sản phẩm nông sản vào thị trường Liên bang Nga sao cho đảm bảo tận dụng được tối đa những lợi thế mà Hiệp định mang lại. Bên cạnh đó, khi hiệp định có hiệu lực, trong quá trình hoạt động kinh doanh với thị trường Liên bang Nga, các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành liên quan, đưa ra những phản hồi, kiến nghị và đóng góp để các bên cùng đàm phán đưa ra các giải pháp và chính sách thiết thực hơn.
Ngoài ra, trong tương lai xa hơn, thông qua FTA Việt Nam –Liên minh kinh tế Á-Âu, Nga và các nước thành viên cũng muốn tiến tới thành lập khu vực thương mại tự do với các nước ASEAN để tăng cường hợp tác thương mại với khu vực này và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Ngược lại, đối với Việt Nam, đẩy mạnh quan hệ thương mại với các nước Liên minh kinh tế Á-Âu cũng mang lại cơ hội cho hàng hóa Việt đi vào thị trường các nước Đông Âu khác, do đó các doanh nghiệp cũng cần chú ý tận dụng cơ hội này.
Thứ tư, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần nâng cao tính cộng đồng giữa các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản trong nước.
Những năm gần đây giữa doanh nghiệp và nông dân thường có hiện tượng phá vỡ hợp đồng do khi giá cả thị trường xuống thì doanh nghiệp không muốn mua hàng, ngược lại khi giá cả thị trường lên thì nông dân lại giữ hàng không bán. Tầm nhìn hạn chế như vậy đã gây ra không ít thiệt thòi cho quá trình sản xuất của người dân, và ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các doanh nghiệp. Để khắc phục vấn đề này, cần phải có những biện pháp để tăng cường, thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ giữa hai bên. Các hộ nông dân sản xuất trong khu vực phải thay đổi phương thức sản xuất theo hướng hợp tác tự nguyện thông qua các câu lạc bộ, tổ hợp tác, hợp tác xã, cử ra ban đại diện để làm việc với doanh để nâng cao tính cạnh tranh, sản xuất nông nghiệp hiệu quả và giảm thiểu rủi ro. Ban quản lý và người dân phải tính toán chi phí và xác định giá thành sản xuất trước mỗi vụ thu hoạch. Bản thân doanh nghiệp cũng phải tính toán chi phí, giá thành, trên cơ sở đó thống nhất với nông dân trong việc phân chia lợi nhuận. Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng cần tiến hành nghiên cứu, xây dựng cơ chế, văn bản pháp quy, công khai thông tin nhằm hỗ trợ nông dân, doanh