người. Khi đến trường, HS bắt đầu được tiếp cận với một hình thức giao tiếp mới: giao tiếp bằng chữ viết. Nhờ có chữ viết mà ngôn ngữ âm thanh của con người được ghi lại và lưu giữ trên giấy để mắt ta có thể nhìn thấy và đọc được.
Việc học tập ở nhà trường chủ yếu thông qua sách vở, tài liệu. Sách được coi là người thầy thứ hai của học sinh. Thông qua đọc sách, HS mở rộng sự hiểu biết của mình về thế giới xung quanh, bồi dưỡng vốn kiến thức cho bản thân về tự nhiên, xã hội, cuộc sống và con người…
Có thể thấy rằng, mọi chuyện học của trẻ đều liên quan tới việc đọc hiểu thông tin (đọc, đọc đề thi, đọc nhận xét...) và trình bày lại thông tin (tóm tắt lại bài, trình bày đáp án, phát biểu cảm nghĩ...). Khả năng nắm bắt thông tin chuẩn xác, nhanh chóng và trình bày mạch lạc, logic sẽ giúp trẻ học tốt hơn, thể hiện bản thân tự tin hơn và được mọi người công nhận, trao cho nhiều cơ hội tốt hơn. Chính vì vậy, UNESCO cũng đã chọn đây là một trong những kỹ năng học tập cần có trong trong thế kỷ 21.
Từ những quan niệm của các nhà khoa học, các chương trình giáo dục đã trình bày ở trên về năng lực của học sinh trong dạy học, theo chúng tôi, năng lực đọc hiểu của học sinh lớp 4là hoạt động học sinh vận dụng những kinh nghiệm sẵn có kết hợp với sự hướng dẫn của thầy (cô) giáo để nhận biết và hiểu nghĩa của văn bản (từ, câu, đoạn, cấu trúc, các thông điệp chính và các chi tiết quan trọng, lập dàn ý, tóm tắt của văn bản); trên cơ sở đó kết nối, đánh giá thông tin (kết nối thông tin trong văn bản và bước đầu kết nối thông tin ngoài văn bản); vận dụng thông tin trong văn bản vào giải quyết một số vấn đề cụ thể trong học tập và đời sống.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành năng lực đọc hiểu
Đối với dạy học đọc hiểu, qua việc phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa các quan niệm về NL đọc hiểu, chúng tôi tán thành và lựa chọn quan niệm về cấu trúc năng lực đọc hiểu của tác giả Nguyễn Thị Hạnh. Năng lực đọc hiểu cũng có các yếu tố cấu thành như những năng lực khác. Theo đó nó bao gồm những yếu tố cấu thành sau:
- Tri thức về văn bản.
- Kĩ năng thực hiện các thao tác đọc hiểu.
- Sự sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống cần đến đọc hiểu (nhiệm vụ trong từng tình huống cụ thể).
Năng lực đọc hiểu được phát triển và hoàn thiện ở mức độ ngày càng cao khi được dùng để giải quyết nhiệm vụ học tập của các môn học khác, giải quyết nhiệm vụ của cuộc sống, lúc này nó trở thành năng lực chung của mỗi học sinh, mỗi cá nhân.
Có thể bạn quan tâm!
- Dạy học đọc hiểu cho học sinh lớp 4 nước CHDCND Lào theo định hướng phát triển năng lực - 1
- Dạy học đọc hiểu cho học sinh lớp 4 nước CHDCND Lào theo định hướng phát triển năng lực - 2
- Quan Niệm Về Năng Lực Và Năng Lực Đọc Hiểu
- Thực Trạng Dạy Đọc Hiểu Lớp 4 Trong Phần Tập Đọc Của Nước Chdcnd Lào
- Phát Triển Năng Lực Nắm Vững Tri Thức Về Văn Bản
- Các Tri Thức Về Từ Vựng, Ngữ Nghĩa, Ngữ Pháp Trong Văn Bản
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
1.1.3.1.Yếu tố tri thức về văn bản
Tri thức về văn bản là những hiểu biết về từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp có trong văn bản, là những hiểu biết về cấu trúc, thể loại của văn bản. Người đọc muốn nắm bắt được ý nghĩa của văn bản thì việc đầu tiên là phải hiểu ý nghĩa của các từ ngữ trong văn bản, hiểu được cách diễn đạt của tác giả thông qua các mô hình ngữ pháp được tác giả sử dụng trong văn bản. Văn bản không chỉ có nghĩa hiển ngôn mà nhiều chi tiết trong văn bản, thậm chí cả một văn bản có thông điệp gửi đến người đọc bằng nghĩa hàm ẩn. Do đó người đọc cần biết cách dựa trên các nghĩa hiển ngôn và sự liên kết với bối cảnh của văn bản mà thực hiện các thao tác suy ý để tìm ra nghĩa hàm ẩn có trong văn bản. Cấu trúc của văn bản cũng là một yếu tố chuyển tải ý nghĩa hoàn chỉnh của văn bản đến với người đọc, do vậy người đọc cần nắm được cấu trúc của từng loại văn bản. Mỗi văn bản đều thuộc về một thể loại, ở mỗi thể loại, nội dung văn bản được tổ chức theo cách khác nhau, được thể hiện bằng cách thức diễn đạt khác nhau của ngôn từ. Do đó để hiểu ý nghĩa một văn bản, rất cần có những hiểu biết về thể loại của văn bản đó hỗ trợ.
1.1.3.2. Yếu tố kĩ năng thực hiện các thao tác đọc hiểu
Dạy đọc hiểu là hình thành kĩ năng để tiến hành những hành động đọc hiểu. Tương ứng với các hành động đọc hiểu có các kĩ năng đọc hiểu. Yếu tố kĩ năng đọc hiểu là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành đọc hiểu mỗi văn bản. Kĩ năng đọc hiểu bao gồm chuỗi các thao tác, hành vi của người đọc được sắp xếp theo một cấu trúc hay một trình tự nhất định.
- Kĩ năng đọc thầm, đọc lướt, đọc quét.
- Kĩ năng nhận diện ngôn ngữ gồm:
+ Kĩ năng nhận diện từ mới và phát hiện những từ quan trọng (từ chìa khóa) trong văn bản.
+ Kĩ năng nhận ra các đoạn ý của văn bản: kĩ năng biết cấu trúc của văn bản.
+ Kĩ năng nhận ra đề tài của văn bản: kĩ năng quan sát tên bài, các hình vẽ minh họa; kĩ năng phán đoán nội dung bài học dựa vào kiến thức vốn có về chủ điểm.
- Kĩ năng làm rõ nội dung văn bản gồm: kĩ năng làm rõ nghĩa từ (bằng ngữ cảnh, bằng trực quan, bằng đồng nghĩa…), làm rõ nội dung thông báo của câu, làm rõ ý của đoạn, làm rõ ý chính của văn bản.
Trong các nhóm kĩ năng trên thì hai nhóm đầu học sinh đã được học ở các lớp 1, 2 và 3. Riêng nhóm kĩ năng hồi đáp văn bản học sinh lớp 4 bắt đầu được tiếp cần và rèn luyện bởi đây là nhóm kĩ năng đòi hỏi ở người học một năng lực cao hơn - năng lực giải quyết vấn đề - trên cơ sở các năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa đã được hình thành dần từng bước. Dù ba nhóm kĩ năng đầu đã được rèn ở các lớp dưới song việc rèn ở lớp 4, lớp 5 vẫn rất cần thiết nhằm hoàn thiện những kĩ năng đã học.
1.1.3.3. Yếu tố làm rõ đích tác động của người viết gửi trong văn bản
Hoạt động sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu, vận dụng văn bản vào giải quyết các nhiệm vụ trong học tập, trong đời sống là hành động cuối cùng của quá trình đọc hiểu. Hoạt động này thể hiện mục đích cuối cùng của đọc hiểu, đồng thời cũng là hành động thể hiện đọc hiểu là một năng lực chung của mỗi người, góp phần làm cho mỗi người đọc có thể tham gia vào xã hội bằng cách thay đổi nhận thức, tình cảm hành vi của chính mình, bằng cách đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn đề trong đời sống mà mình đã học được từ các văn bản đọc hiểu. Để thực hiện hoạt động vận dụng này, học sinh phải tiến hành một số hành động, thao tác: suy luận để bàn luận về những vấn đề trong cuộc sống có thể giải quyết bằng sự học hỏi từ nội dung văn bản, trình bày những giải pháp giải quyết một vấn đề cụ thể (là một nhiệm vụ trong học tập, trong đời sống) từ sự học tập nội dung của văn bản...
1.1.4. Đặc điểm tâm lý học sinh lớp 4 nước CHDCND Lào
Học sinh Tiểu học phần lớn là những trẻ ở độ tuổi từ 6 đến 11. Đây là lứa tuổi lần đầu tiên đến trường, trở thành học sinh, chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ đạo
sang hoạt động học tập là chủ đạo. Vì vậy, có thể nói, hoạt động học tập có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự phát triển tâm lí học sinh tiểu học.
Lứa tuổi học sinh tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức lĩnh hội, sống và phát triển trong nền văn minh nhà trường. Theo các nhà tâm lí học, lứa tuổi học sinh tiểu học chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn đầu cấp (lớp 1, 2, 3)
- Giai đoạn cuối cấp (lớp 4, 5)
Hai giai đoạn này ở trẻ có sự khác nhau khá rõ rệt về mức độ phát triển tâm lí và trình độ thực hiện hoạt động học tập, nhưng không có sự thay đổi đột biến. Và dù ở giai đoạn nào của cấp học thì các em cũng là nhân vật trung tâm và là “linh hồn” của trường tiểu học, từng ngày, từng giờ hình thành cho mình những năng lực ở trình độ sơ đẳng nhưng rất cơ bản, như năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, năng lực tính toán, đặc biệt là năng lực làm việc trí óc - năng lực tạo ra các năng lực khác. Vì vậy, dạy học quan trọng hơn cả là dạy trẻ cách học, cách tiếp cận kiến thức. Cùng với hình thành năng lực là sự hình thành tình cảm, thái độ và cách cư xử phù hợp với dân tộc và văn minh nhân loại hiện đại. Để làm được điều này, để trẻ thực sự trở thành chủ thể của xã hội hiện đại đòi hỏi nhà trường phải thay đổi phương pháp dạy học theo xu hướng của các nhà trường hiện đại và tiên tiến trên thế giới.
Nếu coi phát triển khả năng nhận thức là chỉ số của sự phát triển tâm lí trẻ em thì đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 4 có một số điểm đáng chú ý:
1.1.4.1. Đặc điểm tri giác và nhận thức xã hội
Hoạt động chủ đạo của học sinh tiểu học là hoạt động học tập. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, ngoài nội dung môn học, học sinh vẫn thường xuyên dành sự chú ý và những quan sát của mình tới các mối quan hệ xã hội ở xung quanh cuộc sống, tới diễn biến của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực xã hội. Nhờ kết quả của việc không ngừng tri giác các hiện tượng xã hội, học sinh tìm hiểu để nhận thức thế giới quanh mình bằng các hoạt động thực tiễn, bằng các trải nghiệm cá nhân, bằng sự tham gia các hoạt động xã hội đa dạng và nhiều thách thức. Những câu hỏi về cuộc sống xung quanh của học sinh dần được những quan sát xã hội và trải nghiệm của học sinh làm sáng tỏ. Chính vì những lẽ đó, việc giáo dục những kĩ năng quan sát và nhận thức xã hội
bằng các hoạt động thực tiễn, trải nghiệm trong môi trường xã hội thực là phương thức hiệu quả để học sinh trở thành con người xã hội, sở thuộc xã hội mà các em đang sống.
Với học sinh lớp 4, khi đọc hiểu văn bản các em đã có kĩ năng phân biệt văn bản thơ với văn bản văn xuôi, văn bản kịch; nhận biết những dấu hiệu ngữ pháp: từ ngữ, câu, đoạn văn trong văn bản, nhận biết dấu hiệu của các biện pháp nghệ thuật thông qua các từ ngữ, hình ảnh,... Những dấu hiệu ngữ pháp giúp các em dễ dàng nhận diện được từ ngữ, câu văn mới, khó; chỉ ra được các biện pháp nghệ thuật, cấu tạo của văn bản,… hỗ trợ quá trình tìm ý và lập dàn ý. Giáo viên nên giao cho học sinh nhiệm vụ xác định các từ, câu, chi tiết quan trọng, lập dàn ý và tóm tắt văn bản với yêu cầu tăng dần từ dễ đến khó. Đây cũng là một trong những kĩ năng quan trọng hỗ trợ học sinh trong quá trình tự đọc, tự học.
1.1.4.2. Đặc điểm về tư duy
Ở lớp 4, tư duy của học sinh đã thoát ra khỏi tính chất trực tiếp của tri giác và mang dần tính trừu tượng, khái quát. Những kĩ năng này được hình thành dần qua quá trình học tập dưới sự định hướng của giáo viên. Các em dựa trên các dấu hiệu ngôn ngữ để suy luận và việc làm này sẽ dễ dàng hơn nếu có thêm các phương tiện trực quan làm chỗ dựa.
Khi đọc hiểu văn bản, học sinh đã nhận diện được chính xác hơn về thể loại: thơ, truyện, kịch, miêu tả,…; nhận ra từ ngữ chỉ dẫn; ý chính, ý quan trọng; nội dung văn bản; kết nối và đánh giá thông tin trong và ngoài văn bản, vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề trong học tập và đời sống,…
1.1.4.3. Đặc điểm về tưởng tượng
Tưởng tượng thuộc quá trình nhận thức lí tính vì đó là hình thức phản ánh tâm lí ở mức độ cao, chỉ có ở người. Với học sinh tiểu học, tưởng tượng được hình thành, phát triển trong hoạt động học tập và các hoạt động khác của các em. Lúc đầu, hình ảnh tưởng tượng của trẻ còn phải dựa trên những đối tượng cụ thể (truyện, tranh,…) nhưng sau lại được phát triển trên cơ sở của ngôn từ. Trẻ càng lớn thì hình ảnh tưởng tượng càng được gọt giũa hơn, tinh giản hơn, mạch lạc và sát thực hơn song cũng phong phú hơn. Giáo viên trong quá trình tổ chức dạy học, cần chú ý đến các yếu tố có tác dụng hỗ trợ học sinh phát triển tưởng tượng.
Đối với các văn bản đọc hiểu, giúp học sinh hiểu ý nghĩa từ, câu, hình ảnh và trả lời được những câu hỏi, bài tập ở nhiều cấp độ khác nhau chính là giúp học sinh phát triển khả năng tưởng tượng. Khi đọc văn bản, học sinh lớp 4 có khả năng tưởng tượng về thiên nhiên, con người: các nhân vật trong truyện, cảnh vật và con người trong bài văn miêu tả, không gian của vở kịch,… Từ đó, kết nối những điều vừa được học với những gì đã học, đánh giá và vận dụng vào học tập những nội dung khác. Vì vậy, dạy đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 4 cần chú trọng đến các biện pháp hỗ trợ học sinh hiểu từ ngữ, hình ảnh, câu, đoạn, cấu trúc của văn bản,…; xây dựng câu hỏi, bài tập liên hệ, so sánh,… để kích thích khả năng tưởng tượng của các em.
1.1.4.4. Đặc điểm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện đắc lực của hoạt động trí tuệ, là yếu tố góp phần đắc lực làm cho các quá trình tâm lí của người khác về chất so với con vật. Ngôn ngữ liên quan đến tất cả các quá trình tâm lí của con người, đặc biệt là quá trình nhận thức và ghi nhớ.
Ở lứa tuổi tiểu học, ngôn ngữ phát triển mạnh về cả ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng. Trên cơ sở nhận biết được các âm tố, sự phát âm của trẻ tiểu học chuẩn hơn hẳn so với trẻ trước tuổi đi học. Do phạm vi tiếp xúc mở rộng, học tập nhiều môn học nên vốn từ của các em tăng lên đáng kể. Tuy nhiên việc hiểu nghĩa của từ còn khó khăn đối với các em. Điều này dẫn đến việc các em còn dùng sai nghĩa của từ và chưa sử dụng từ ngữ một cách phong phú khi viết. Giáo viên cần linh hoạt trong việc hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ giúp học sinh hiện thực hóa nghĩa của từ trong từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Lên đến lớp 4, các em phát âm tương đối chuẩn, tốc độ đọc tăng dần, năng lực hiểu nghĩa từ cũng đạt đến trình độ cao hơn so với các lớp dưới. Kĩ năng đọc thành tiếng của học sinh tương đối hoàn thiện nên giáo viên cần chú trọng hơn đến việc hình thành năng lực đọc hiểu. Cần chú trọng hướng dẫn học sinh đọc thầm để phát hiện ra những dấu hiệu ngữ pháp hỗ trợ quá trình đọc hiểu văn bản. Việc hiểu nghĩa văn bản tốt, tốc độ đọc nhanh hỗ trợ các em rất nhiều trong quá trình đọc diễn cảm- một trong những hình thức thể hiện năng lực hiểu văn bản ở mức độ cao.
Từ việc nghiên cứu các đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh cuối cấp tiểu học, có thể rút ra các kết luận sư phạm khi dạy đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 4 của nước CHDCND Lào là:
1) Giáo viên nên giảm thời lượng đọc thành tiếng, dành nhiều thời gian cho học sinh tìm hiểu nội dung văn bản. Hiểu nội dung văn bản bao gồm hiểu từ ngữ, câu, đoạn, cấu trúc văn bản, các chi tiết chính và các chi tiết quan trọng, lập dàn ý và tóm tắt văn bản.
2) Giáo viên cần chú ý phát huy những hiểu biết sẵn có của học sinh, tạo cơ hội cho các em chia sẻ trong quá trình dạy học đọc hiểu văn bản.
3) Giáo viên nên mạnh dạn điều chỉnh hệ thống câu hỏi, bài tập cuối mỗi bài đọc giúp học sinh hiểu nội dung văn bản cụ thể, trên cơ sở đó rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản.
4) Giáo viên cần tổ chức cho học sinh đọc hiểu thông qua những hoạt động đa dạng, sáng tạo, phù hợp với nội dung văn bản để kích thích hứng thú của các em. Học sinh phải là trung tâm của mọi hoạt động.
5) Giáo viên sử dụng hiệu quả đồ dùng và phương tiện dạy học hiện đại, khuyến khích học sinh cùng chu n bị đồ dùng, tư liệu cho bài đọc.
6) Giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng học được vào giải quyết những nhiệm vụ trong học tập và trong đời sống thông qua những bài tập, yêu cầu sau mỗi văn bản đọc.
7) Với từng văn bản cụ thể, giáo viên có thể linh hoạt điều chỉnh thời lượng tiết học để đảm bảo giúp học sinh thông hiểu văn bản.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung dạy học đọc hiểu trong môn Tiếng Lào lớp 4
1.2.1.1. Mục tiêu của dạy- học Tiếng Lào ở bậc tiểu học
Trong Chương trình giáo dục cấp Tiểu học của Lào, môn Tiếng Lào được xây dựng với mục đích “Tiếng Lào là quốc tiếng của đất nước Lào, là ngôn ngữ quan trọng được sử dụng trong mọi công việc như: làm công cụ giao tiếp, ghi chép và truyền thụ văn hóa, phong tục tập quán của người Lào. Việc học tiếng Lào ở bậc Tiểu
học là học về sử dụng ngôn ngữ, tạo sự hứng thú cho học sinh và có thể phát triển kĩ năng nghe, nói, đọc và viết” [29, tr.9].
- Chương trình giáo dục cấp Tiểu học của Lào [29]. Cụ thể, môn Tiếng Lào có mục tiêu sau:
- Giúp học sinh có được kiến thức cơ bản về tiếng Lào và sử dụng linh hoạt tiếng Lào trong việc thực hành nghe, nói, đọc, viết thông thường.
- Học sinh có khả năng vận dụng ngôn ngữ kết hợp với các nguồn thông tin (nghe - đọc) về phong tục tập quán, văn hóa dân tộc và có thể diễn đạt lại bằng lời nói hay bài viết.
- Cung cấp cho học sinh những hiểu biết về văn học trong nước cũng như nước ngoài.
- Rèn luyện cho học sinh thói quen học tập thường xuyên, có khả năng sử dụng tiếng Lào trong việc phân tích, giải quyết vấn đề dựa trên những hiểu biết của bản thân học sinh.
- Đào tạo ra thế hệ công dân Lào có đủ kiến thức, kĩ năng và thành công hơn trong cuộc sống.
1.2.1.2. Chương trình dạy- học đọc hiểu lớp 4 hiện hành của nước CHDCND Lào
SGK Tiếng Lào mỗi lớp có 1 quyển, được cấu trúc theo đơn vị bài học, mỗi năm học thực hiện trong 33 tuần học. Ngoại trừ sách Tiếng Lào lớp 1 học về âm, vần, tiếng, từ có cấu trúc riêng, SGK Tiếng Lào lớp 2, 3, 4, 5 có cấu trúc giống nhau, mỗi bài học được nhóm lại theo mạch nội dung kiến thức, kĩ năng, không chia thành các phân môn cụ thể mà tích hợp vào trong một bài học. Theo mạch nội dung dạy - học, các hoạt động trong bài học được phân thành bốn nhóm: hoạt động đọc, hoạt động viết, hoạt động nghe - nói, hoạt động tìm hiểu kiến thức ngôn ngữ và văn học. Mỗi nhóm hoạt động lại có thể được chia tiếp thành các nhóm kĩ năng nhỏ hơn. Về điểm này, SGK Lào có cấu trúc gần giống với Tài liệu Hướng dẫn học VNEN của Việt Nam.
Thống nhất với mục tiêu của môn Tiếng Lào nói chung thì môn Tiếng Lào lớp 4 cũng góp phần hoàn thành mục tiêu đã đặt ra là biên soạn SGK theo quan điểm tích hợp nhằm giúp học sinh tiết kiệm thời gian học tập, nâng cao hiệu quả giáo dục đồng