Nội Dung Và Tiêu Chí Đánh Giá Đầu T Ư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Hướng Phát Tri Ển Bền Vững V Ề Xã Hội Vùng Kinh T Ế Trọng Điểm


Nhà ĐTNN với những lợi thế về tiềm lực tài chính, khoa học công nghệ và khả năng kết nối với thị trường quốc tế đã trở thành những nhà xuất khẩu lớn và có những đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của vùng KTTĐ. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI ngày càng cao làm cho tỷ lệ đóng góp của khu vực này vào kim ngạch xuất khẩu của vùng KTTĐ ngày càng lớn. Điều này góp phần nâng cao vị thế và ảnh hưởng của vùng KTTĐ đối với các vùng kinh tế khác và với cả nước. Nội dung này có thđược phản ánh qua một số chỉ tiêu như:

+ Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI;

+ Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI so với kim ngạch xuất khẩu của cả vùng KTTĐ.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào sự giàu mạnh của ngân sách vùng KTTĐ

Khu vực FDI hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao sẽ có đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách của vùng KTTĐ, thông qua việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Điều này sẽ tạo điều kiện cho vùng KTTĐ tăng thêm nguồn thu vào ngân sách, từ đó, góp phần tăng các chương trình chi tiêu cô ng cho các vấn đề xã hội và xóa đói giảm nghèo; góp phần tăng chi đầu tư hạ tầng tại các vùn g khó khăn, nơi có nhiều người nghèo sinh sống, nhờ đó, cải thiện đời sống cho người nghèo. Ngoài ra, đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách của vùng KTTĐ không những giúp cho vùng KTTĐ tự đảm bảo được nguồn tài chính cho mình, có khả năng tạo tích lũy để tái sản xuất mở rộng, mà còn có khả năng hỗ trợ cho các vùng khác và có đóng góp tích cực vào nguồn thu ngân sách quốc gia. Đánh giá nội dung này có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:

+ Tốc độ tăng thu ngân sách hàng năm của khu vực FDI;

+ Tỷ lệ thu ngân sách từ khu vực FDI so với tổng thu ngân sách vùng KTTĐ.

- Đóng góp của khu vực FDI vào tổng vốn đầu tư xã hội vùng KTTĐ

Với vai trò là đầu tàu, là vùng động lực có tác động lan tỏa tới sự phát triển của các vùng khác, vùng KTTĐ có nhu cầu về vốn đầu tư rất lớn , trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là vô cùng quan trọng. Do đó, sự đóng góp vốn của khu vực FDI vào tổng vốn đầu tư xã hội của vùng KTTĐ sẽ tạo điều kiện cho vùng KTTĐ giảm bớt những khó khăn về mặt tài chính, có đóng góp đáng kể cho việc tích lũy vốn, tăng cường cho hoạt động đầu tư công, nhằm phá t triển kinh tế, xã hội ở vùng KTTĐ. Phản ánh nội dung này có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 187 trang tài liệu này.

+ Tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI vào tổng vốn đầu tư xã hội ở vùng KTTĐ;

+ Tốc độ gia tăng vốn đầu tư của khu vực FDI hàng năm.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - 7


2.2.1.2. Nội dung và tiêu chí đánh giá đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững về xã hội vùng kinh tế trọng điểm

Đầu tư trực tiếp theo hướng PTBV về xã hội vùng KTTĐ có thể được hiểu là những tác động tích cực của FDI đến mục tiêu phát triển con người (cụ thể là phát triển nguồn lao động trong các doanh nghiệp FDI), góp phần xóa đói giảm nghèo và từng bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở vùng KTTĐ. Trong đó, mục tiêu phát triển nguồn lao động trong các doanh nghiệp FDI là mục tiêu quan trọng nhất, thể hiện tính nhân văn của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, nội dung của đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV về xã hội vùng KTTĐ bao gồm các nội dung cụ thể sau đây:

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần giải quyết việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động ở vùng KTTĐ theo hướng tiến bộ

Khu vực có vốn FDI tạo ra nhiều việc làm có chất lượng cao, có giá trị gia tăng cao. Việc làm đó phải đảm bảo gia tăng về số lượng, đồng thời phải đảm bảo s ự ổn định trong dài hạn. Việc làm tạo ra giá trị gia tăng cao, ổn định là một trong những tiêu chí quan trọng khẳng định dự án FDI có hiệu quả, có khả năng PTBV cả về kinh tế và xã hội của vùng KTTĐ. Đánh giá nội dung này có thể sử dụng các chỉ tiêu sau đâ y:

+ Số lao động được tạo ra hàng năm trong khu vực FDI;

+ Tốc độ tăng số lao động đang làm việc hàng năm trong khu vực FDI;

+ Tỷ lệ số lao động đang làm việc trong khu vực FDI so với tổng số lao động đang làm việc của vùng KTTĐ;

+ Số lượng và tỷ lệ sử dụn g lao động địa phương so với tổng số lao động của khu

vực FDI;

+ Tỷ lệ LĐCN trong khu vực FDI so với tổng số lao động đang làm việc ở vùng KTTĐ;

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng nâng cao chất lượng nguồn lao động

đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI ở vùng KTTĐ

Người lao động chính là người sản xuất trực tiếp ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tạo ra kết quả sản xuất kinh doanh và lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp FDI và giúp nhà ĐTNN đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Do đó, chất lượng nguồn lao động trong các doanh nghiệp FDI cần phải được quan tâm một cách thỏa đáng , không phải vì mục tiêu nâng cao năng suất lao động và đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn vì mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn lao động cho nước sở tại. Chất lượng nguồn lao động được thể hiện thông qua việc đảm bảo chế độ phúc lợi xã hội cho người lao động của các chủ ĐTNN, đảm bảo điều kiện làm việc, điều kiện


sống cả về vật chất và tinh thần của người lao động. Ngoài ra, chất lượng nguồn lao động còn được thể hiện ở khả năng được đào tạo nghề, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động. Thực tế cho thấy, nhà ĐTNN chỉ quan tâm đến mục tiêu kinh tế của mình mà bỏ qua quyền lợi chính đáng của người lao động trong việc hưởng thụ các phúc lợi xã hội. Vấn đề này liên quan đến hàng loạt các vấn đề xã hội và các chính sách đảm bảo an sinh xã hội của các doanh nghiệp FDI ở vùng KTTĐ, đó là: nhà ở, bệnh viện, trường học, khu vui chơi giải trí,... cho người lao động. Những vấn đề đó cần phải được hoạch định, chỉ dẫn, thậm chí là yêu cầu bắt buộc đối với các nhà ĐTNN nhằm đảm bảo cho FDI vào vùng KTTĐ đạt được mục tiêu PTBV về xã hội. Có thể đánh giá nội dung này qua các tiêu chí sau đây:

+ Mức thu nhập bình quân/tháng/lao động (bao gồm tiền lương và các loại thu nhập khác) của người lao động. Chỉ tiêu này được đo lường bằng mức thu nhập bình quân, tốc độ tăng thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực FDI so với thu nhập của người lao động làm việc trong cùng một ngành nghề ở các loại hì nh doanh nghiệp khác;

+ Tỷ lệ lao động, nhất là lao động nhập cư làm việc trong các doanh nghiệp FDI có nhà ở, điều kiện nơi ở; trang thiết bị phục vụ sinh hoạt hàng ngày của người lao động;

+ Số lượng các hoạt động văn hóa, tinh thần tổ chức hàng năm của doanh nghiệp FDI;

+ Số điểm vui chơi giải trí, văn hóa, thể thao cho người lao động trong các doanh nghiệp FDI;

+ Tỷ lệ thời gian nghỉ ngơi/ngày của người lao động;

+ Thời gian làm thêm giờ của người lao động;

+ Tỷ lệ lao động được trang bị phương tiện bảo hộ lao động.

+ Tỷ lệ lao động được đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc trong khu vực FDI.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội cho dân cư ở vùng KTTĐ

Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy tă ng trưởng kinh tế và đóng góp vào ngân sách vùng KTTĐ. Thông qua kênh này, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động gián tiếp đến công tác xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội cho dân cư ở vùng KTTĐ. Cụ thể là: đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần t húc đẩy tăng trưởng kinh tế, do đó, tác động đến quy mô đầu tư và việc làm (tăng cung) và tác động kéo nhờ tăng thu nhập. Mở rộng đầu tư sản xuất, tăng việc làm và thu nhập sẽ tác động ngược trở lại tới giảm nghèo tích cực và bền vững. Đầu tư trực tiếp nướ c ngoài góp phần làm tăng thu ngân sách của vùng KTTĐ, tạo điều kiện cho vùng KTTĐ có điều kiện vật chất để tăng


chi đầu tư vào hạ tầng cơ sở, giải quyết các vấn đề xã hội tại các vùng khó khăn, góp phần thu hẹp chênh lệch và khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước.

2.2.1.3. Nội dung và tiêu chí đánh giá đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững về môi trường vùng kinh tế trọng điểm

Môi trường sống là nơi con người tồn tại và phát triển, đồng thời cũng là nơi chứa đựng chất thải do chính hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người tạo ra. Việc xử lý chất thải, đặc biệt là chất thải rắn tốn kém rất nhiều về kinh tế, về thời gian... Nhân tố đó sẽ làm gia tăng chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả kinh tế của nhà ĐTNN. Bởi vậy, nhà ĐTNN thường không hoặc ít chú ý đến việc xử lý ô nhiễm môi trường. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của nước tiếp nhận đầu tư, ảnh hưởng đến mục tiêu PTBV.

Do đó, đầu tư trực tiếp nước ng oài theo hướng PTBV về môi trường vùng KTTĐ

phải được hiểu là việc tuân thủ các qui định về môi trường của nhà ĐTNN trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; có khả năng phòng ngừa và xử lý tốt các vấn đề ô nhiễm môi trường do mình gây ra nhằm giảm thi ểu các tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái và sức khỏe của cộng đồng dân cư. Theo đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV về môi trường vùng KTTĐ được thể hiện ở những nội dung sau đây:

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài phải gắn với việc khai th ác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên ở vùng KTTĐ

Bất cứ hoạt động đầu tư nào, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

cũng cần phải khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên (bao gồm nguồn tài nguyên có thể tái tạo được và không tái tạo được). Các chỉ tiêu phản ánh nội dung này có thể được đo lường bằng:

+ Tỷ lệ giá trị xuất khẩu tài nguyên thô so với tổng giá trị xuất khẩu của khu vực FDI;

+ Mức tiêu dùng tài nguyên thiên nhiên/1 đơn vị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài phải tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật BVMT của nước tiếp nhận đầu tư nói chung và của vùng KTTĐ nói riêng

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp (trong đó có không ít các doanh nghiệp FDI)

đang hoạt động tại Việt Nam chưa có nhận thức đúng đắn về vấn đề BVMT. Các doanh nghiệp vẫn mải chạy theo lợi nhuận trước mắt, không bỏ vốn đầu tư thích đáng hoặc đầu tư với một tỷ lệ rất ít cho công tác bảo vệ môi trường gây ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi, thậm chí phần lớn các doanh nghiệp bằng cách này hay cách khác cố tình vi phạm pháp luật BVMT trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, nội dung này rất quan trọng và đòi hỏi các nhà ĐTNN phải nhận thức một c ách đúng đắn về trách nhiệm của mình, tích cực và chủ động tham gia vào công tác BVMT của nước tiếp nhận đầu tư. Để


đánh giá việc thực hiện pháp luật BVMT của các doanh nghiệp FDI, cần căn cứ vào các chỉ tiêu sau đây:

+ Số lượng và tỷ lệ doanh nghiệp FDI l ập Báo cáo đánh giá tác động môi trường

và Cam kết BVMT;

+ Số lượng và tỷ lệ các doanh nghiệp FDI có hệ thống xử lý chất thải/tổng số các doanh nghiệp FDI;

+ Số lượng và tỷ lệ các doanh ng hiệp FDI vi phạm pháp luật BVMT.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐ phải gắn với việc sử dụng công nghệ cao, công nghệ hiện đại, công nghệ thân thiện với môi trường

Trình độ công nghệ trong các dự án FDI không những có liên quan trực tiếp đến hiệu quả khai thác, sử dụng nguồn lực tài nguyên thiên nhiên mà còn có tác động tích cực trong việc giảm thiểu mức độ ô nhiễm môi trường do hoạt động đầu tư gây ra. Đánh giá nội dung này, có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:

+ Qui mô vốn đầu tư/lao động;

+ Mức độ trang bị tài sản cố định (TSCĐ)/lao động;

+ Trình độ công nghệ của các dự án FDI (công nghệ cao, công nghệ trung bình, công nghệ thấp);

+ Tỷ lệ các dự án FDI từ các quốc gia phát triển.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐ phải gắn với việc xây dựng phương án BVMT; có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát ô nhiễm môi trường; bảo vệ, nuôi dưỡng và cải thiện chất lượng môi trường ở vùng KTTĐ

Nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường vùng KTTĐ thì bên cạnh việc sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, các doanh nghiệp FDI còn phải có phương án BVMT, trong đó có đề xuất công nghệ được sử dụng trong dự án, kế hoạch đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải,.. . Phương án này phải được xây dựng kèm theo với phương án đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Các chỉ tiêu đánh giá cho nội dung này bao gồm:

+ Chi phí đầu tư cho nghiên cứu và triển khai công nghệ BVMT;

+ Chi phí đầu tư cho công tác BVMT của các doanh nghiệp FDI;

+ Tỷ lệ chi đầu tư cho công tác BVMT so với tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp FDI.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài phải có hiệu ứng tích cực đối với các DNTN trong vấn đề BVMT, góp phần tác động đến công tác quản lý môi trường của nước tiếp nhận đầu tư nói chung và vùng KTTĐ nói riêng


Tác động tích cực của FDI đến môi trường được nhiều nhà nghiên cứu cho thấy các công ty nước ngoài (TNCs) với trình độ khoa học công nghệ hiện đại , qui trình sản xuất của họ tiên tiến hơn so với các công ty nội địa và thường được tiêu chuẩn hóa cao, nên dễ dàng đáp ứng được tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của nướ c sở tại. Hơn nữa, các công ty FDI thường có tiềm lực tài chính và khả năng tiếp cận với các kỹ năng quản lý môi trường, do đó, họ có điều kiện thuận lợi trong xử lý chất thải và tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường như góp quĩ, hỗ trợ tài chính,.. . Vì vậy, vấn đề chủ yếu ở đây là nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp FDI và tăng cường hiệu lực giám sát của các cơ quan Nhà nước ở nước tiếp nhận đầu tư.

Việc tuân thủ nghiêm các tiêu chuẩn môi trường của các doanh nghiệp FDI còn tác động tích cực tới kết quả môi trường của các bạn hàng cung cấp đầu vào và các công ty vệ tinh thông qua việc hỗ trợ, tư vấn về hệ thống quản lý môi trường hoặc các giải pháp xử lý môi trường mà doanh nghiệp FDI đã làm. Thông qua các đối tác liên doanh FDI, các doanh nghiệp nội địa có thể học hỏi, được hỗ trợ và tư vấn để cải thiện kết quả môi trường. Ngoài ra, doanh nghiệp FDI có thể trở thành những "mô hình mẫu", giới thiệu những kiến thức quản lý môi trường hiện đại cho các nước đang phát triển với tinh thần sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường, đồng thời tạo áp lực để các công ty trong nước cải thiện kết quả môi trường của mình.

2.2.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm

Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến FDI theo hướng PTBV của vùng KTTĐ, do

đó, cách tiếp cận và phân loại các nhân tố ảnh hưởng cũng khác nhau. Sau đây là các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ theo cách tiếp cận của tác giả luận án.

2.2.2.1. Nhóm nhân tố thuộc về nước tiếp nhận đầu tư

- Sự hoàn thiện của hệ thống luật pháp và chính sách liên quan đến FDI theo ớng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà ĐTNN bỏ vốn và tài sản trực tiếp quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình tại một quốc gia khác nhằm mục đích thu lợi nhuận. Do đó, hoạt động ĐTNN có liên quan rất nhiều đến các tổ chức, các cá nhân của nước tiếp nhận đầu tư, trong một khoảng thời gian dài. Vì vậy, các nhà ĐTNN rất cần có một môi trường pháp lý ổn định, vững chắc, có hiệu lực để họ có thể yên tâm làm ăn lâu dài.


Môi trường pháp lý bao gồm một hệ thống các chính sách, các qui định đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, không chồng chéo với nhau và có hiệu lực trong thực hiện. Hệ thống các chính sách tác động đến hoạt động FDI, bao gồm các chính sách, qui định tác động trực tiếp như qui định về lĩnh vực, ngành nghề đầu tư, các ưu đãi đầu tư, mức sở hữu vốn của nhà ĐTNN, miễn giảm thuế đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,... đặc biệt là các chính sách kinh tế có tác động gián tiếp đến hoạt động FDI như: chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách thương mại, chính sách đất đai, chính sách môi trường, chính sách lao động,...

Khi luật pháp, chính sách được xây dựng phù hợp, công tác chỉ đạo điều hành thực thi nghiêm túc thì sẽ đạt được các định hướng và mục tiêu quản lý của nhà nước đối với hoạt động FDI. Ngược lại, nếu những định hướng và mục tiêu quản lý không được thực hiện đầy đủ thì trước hết là do sự chưa hoàn chỉnh trong chế đ ịnh pháp luật, chính sách và trong công tác điều hành thực hiện các chế định được ban hành.

Hệ thống pháp luật càng hoàn chỉnh, phù hợp với các thông lệ của khu vực và quốc tế, không có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong hay ngoài nước, công tác quản lý của nhà nước ngày càng hoàn thiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thì môi trường đầu tư càng có tính cạnh tranh cao và càng có khả năng hấp dẫn các nhà ĐTNN.

- Chiến lược thu hút FDI hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm

Kinh tế thị trường không đồng nghĩa với việc loại trừ vai trò của kế hoạch hoá

mà trái lại rất cần sự định hướng và điều tiết của Nhà nước thông qua các công cụ như: chiến lược, mục tiêu, chương trình, kế hoạch, qui hoạch. Chức năng định hướng của Nhà nước trước hết thể hiện ở việc xác định đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Trên cơ sở chiến lược phát triển dài hạn và kế hoạch t rong từng thời kỳ, xây dựng các phương án, mục tiêu, chương trình hành động quốc gia, qui hoạch và kế hoạch phát triển tổng thể của cả nền kinh tế. Từ đó, tiến hành qui hoạch thu hút các nguồn vốn cho việc thực hiện các phương án, mục tiêu, chương trình qu ốc gia. Công tác định hướng của Nhà nước với FDI phải được cụ thể hoá bằng việc xây dựng danh mục các dự án kêu gọi vốn ĐTNN, xác định các lĩnh vực ưu tiên, địa điểm ưu tiên FDI. Để đạt được mục tiêu định hướng thu hút FDI vào các lĩnh vực, địa bàn ưu tiên , Nhà nước cần vận dụng các công cụ kinh tế để khuyến khích các nhà ĐTNN.


- Chất lượng của công tác qui hoạch, kế hoạch thu hút FDI theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm

Xây dựng qui hoạch, kế hoạch thu hút FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ l à một công việc hết sức quan trọng. Do đó, việc xây dựng, phê duyệt và triển khai thực hiện qui hoạch, kế hoạch đòi hỏi phải phù hợp với yêu cầu của vùng KTTĐ, phải gắn kết với qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, qui hoạch phát triển ngành, lĩnh vực của vùng KTTĐ. Công tác qui hoạch, kế hoạch thu hút FDI phải có tầm nhìn chiến lược trong dài hạn, từ đó làm cơ sở để xác định thu hút FDI trong từng thời kỳ cụ thể.

Qui trình lập qui hoạch, kế hoạch thu hút FDI phải được xem xét dựa trên những lợi thế so sánh, tiềm năng sẵn có của vùng, nhằm khai thác một cách hiệu quả các nguồn lực của vùng KTTĐ. Từ đó, vùng phải xây dựng danh mục kêu gọi đầu tư sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tránh tình trạng qui hoạch treo, qui hoạch xong bỏ đấy, làm lãng phí các nguồn lực. Do đó, khi xây dựng danh mục kêu gọi FDI cần hết sức lưu ý đến tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc danh mục dự án của thời kỳ trước để từ đó rút kinh nghiệm và lựa chọn dự án chuyển tiếp cho thời kỳ tiếp theo. Nếu công tác qui hoạch, kế hoạch thu hút FDI được thực hiện tốt, sẽ tránh được tình trạng mất cân đối cơ cấu ngành ở vùng KTTĐ.

- Năng lực kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng

phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm

Hoạt động kiểm tra, giám sát là công cụ phản hồi thông tin quan trọng để Chính phủ đánh giá hiệu quả và mức độ hợp lý của những chính sách, qui định liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được ban hành. Ngoài ra, hoạt động kiểm tra, thanh tra giám sát còn phát hiện những vướng mắc của các nhà ĐTNN, nhằm tạo điều kiện giúp đỡ các nhà ĐTNN tháo gỡ những khó khăn trong khi triển khai và đưa dự án vào hoạt động. Do đó, hoạt động kiểm tra, giám sát cần phải được tiến hành ở tất cả các giai đoạn của quá trình hoạt động của FDI và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục.

- Sự liên kết, phối hợp trong hoạt động FDI giữa các Bộ, ngành với địa phương và giữa các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm

Liên kết, phối hợp trong việc xử lý các vấn đề mang tí nh chất liên vùng trong

hoạt động FDI là một trong những vấn đề lớn và phức tạp. Liên kết, phối hợp trong phạm vi liên vùng trong hoạt động FDI nhằm phát huy tốt các nguồn lực; đảm bảo sự cân đối, hài hòa, tránh được sự trùng lặp, chồng chéo trong cơ cấu đ ầu tư FDI giữa các tỉnh, thành phố trong một vùng. Các nội dung cần tăng cường liên kết, phối hợp trong

Xem tất cả 187 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí