Qua các định nghĩa về FDI, ta có định nghĩa chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau :
FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi.
Như vậy, khái niệm xuất khẩu tư bản hoạt động mà Lênin đưa ra trước đây và khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày nay có chung bản chất .
1.1.2. Bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhằm tối đa hoá lợi ích đầu tư hay tìm kiếm lợi nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư thông qua di chuyển vốn (bằng tiền và tài sản, công nghệ và trình độ quản lý của nhà đầu tư nước ngoài) từ nước đi đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư ở đây bao gồm tổ chức hay cá nhân chỉ mong muốn đầu tư khi cho rằng khoản đầu tư đó có thể đem lại lợi ích hoặc lợi nhuận cho họ. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản nhất và là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc hình thành hoạt động FDI giữa các quốc gia .
FDI có những đặc điểm sau:
- FDI là một dự án mang tính lâu dài. Đây là đặc điểm phân biệt giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp (portfolio investment). Đầu tư gián tiếp thường là các dòng vốn có thời gian hoạt động ngắn và có thu nhập thông qua việc mua, bán chứng khoán (Cổ phiếu hoặc trái phiếu). Đầu tư gián tiếp có tính thanh khoản cao hơn so với đầu tư trực tiếp, dễ dàng thu lại số vốn đầu tư ban đầu khi đem bán chứng khoán và tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ phát triển ở những nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI là một dự án có sự tham gia quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây cũng là một trong những đặc điểm để phân biệt đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp. Trong khi đầu tư gián tiếp không cần tham gia sự quản lý doanh nghiệp, các khoản thu nhập chủ yếu là các cổ tức từ việc mua bán chứng khoán tại các doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư, ngược lại nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có quyền tham gia hoạt động quản lý trong các doanh nghiệp FDI. Tuy vậy nhà đầu tư nước ngoài phải có bao nhiêu phần trăm cổ phần mới được phép tham gia quản lý doanh nghiệp FDI.
Có thể bạn quan tâm!
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Quảng Ninh - 1
- Quan Điểm, Chính Sách Thu Hút Và Nâng Cao Hiệu Quả Fdi Của Việt Nam
- Cơ Cấu Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Theo Nghành1988-2005
- Kinh Nghiệm Thu Hút Fdi Của Thành Phố Hải Phòng
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
Theo hướng dẫn của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và Bộ Thương mại Hoa Kỳ thì nhà đầu tư nước ngoài phải chiếm tối thiểu 10% cổ phiếu thường hoặc quyền bỏ phiếu trong các doanh nghiệp FDI để cho nhà đầu tư có tiếng nói hay tham gia quản lý trong các doanh nghiệp FDI.
- Đi kèm với dự án là ba yếu tố: Hoạt động thương mại (xuất nhập khẩu), chuyển giao công nghệ, di cư lao động quốc tế, trong đó di cư lao động quốc tế góp phần vào việc chuyển giao kỹ năng quản lý doanh nghiệp FDI.
- FDI là hình thức kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản xuất”, “chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật” và “nội bộ hoá di chuyển kỹ thuật”. Trên thực tế, nhất là trong nền kinh tế hiện đại có một số yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh đã buộc nhiều nhà sản xuất phải lựa chọn phương thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như là một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của mình. Ngoài ra đầu tư trực tiếp ra nước ngoài còn giúp cho doanh nghiệp còn thay đổi được dây chuyền công nghệ lạc hậu ở nước mình nhưng dễ được chấp nhận ở nước có trình độ phát triển thấp hơn và góp phần kéo dài chu kỳ sản xuất.
- FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách về FDI của mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thể hiện chính sách mở cửa và quan điểm hội nhập quốc tế về đầu tư.
1.1.3.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển kinh tế
Trong thời đại phát triển kinh tế như hiện nay, FDI có một vai trò rất lớn. FDI góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển thì FDI ngày càng trở nên quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. FDI là yếu tố quan trọng trong việc tăng cường và bổ sung nguồn vốn đầu tư trong nước, bù đắp sự thiếu hụt về nguồn vốn để thực hiện thành công các mục tiêu tăng trưởng và phát triển đất nước. Một trong những đặc điểm cơ bản có tính phổ biến ở các nước đang phát triển đó là tỷ lệ tiết kiệm thấp và thiếu ngoại tệ, hơn nữa quá trình tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế rất chậm và không đáng kể cho yêu cầu của công nghiệp hoá. Các nước đang phát triển muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong khi phải đối mặt với sự khan hiếm về vốn, sự thiếu vắng những công nghệ tiên tiến để phục vụ cho giai
đoạn đầu công nghiệp hoá, cho đến những hạn chế về kiến thức kinh doanh. Những yếu tố này sẽ góp phần hạn chế các nước đang phát triển đẩy nhanh quá trình này.
Qua thực tế ở một số nước đang phát triển trong nhiều năm qua, FDI chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số vốn đầu tư trong nước. Ngoài ý nghĩa tăng cường vốn đầu tư nội địa, FDI còn bổ sung nguồn thu ngân sách của chính phủ các nước đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Đây là nguồn ngoại tệ rất quan trọng để đầu tư vào các dự án công cộng, các công trình phúc lợi phục vụ dân sinh trong giai đoạn đầu phục vụ công nghiệp hoá.
Một yếu tố quan trọng và hấp dẫn của FDI đối với các nước đang phát triển là chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến góp phần quan trọng đối với sự phát triển công nghệ và hiện đại hoá đất nước. Khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư sẽ được nâng cao thông qua việc tiếp cận và tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến hiện đại trong các dự án liên doanh giữa nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài. Các chuyên gia kỹ thuật trong nước có thể nghiên cứu cải tiến công nghệ sao cho phù hợp với điều kiện của mình, góp phần tích cực vào việc phát triển công nghệ kỹ thuật, giúp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Vai trò tiếp theo của FDI là giúp các nước đang phát triển đào tạo kiến thức kinh doanh đặc biệt là các kiến thức cần thiết khi thâm nhập thị trường nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới. FDI giúp nước chủ nhà đào tạo nguồn nhân lực thông qua việc các chủ đầu tư nước ngoài tổ chức các khoá học đào tạo từ tay nghề chuyên môn cho đội ngũ công nhân cho đến các kiến thức về quản lý điều hành cũng như kỹ thuật cho cán bộ, nhân viên của nước sở tại để thực hiện các trương trình đầu tư theo dự án. Bằng con đường này, kiến thức kinh doanh hiện đại của cán bộ và tay nghề của công nhân được nâng lên.
Bên cạnh một số vai trò chính mà FDI mang lại cho sự phát triển kinh tế như đã nêu ở trên, đầu tư nước ngoài sẽ góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Các dự án 100% vốn nước ngoài hay các dự án liên doanh đều tạo ra động lực để buộc các doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm qua đó tăng khả năng cạnh tranh của mình. Đây cũng là một trong những yếu tố tích cực giúp các doanh nghiệp trong nước tự tin hơn trên thị trường trong nước cũng như khi xâm nhập thị trường thế giới. Đồng thời do việc thêm các đối thủ cạnh tranh sẽ làm cho môi trường cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn, điều này làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả. Một vai trò cũng rất tích cực là FDI sẽ góp phần giúp nền kinh tế chuyển dịch nhanh chóng theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế hiện nay đó là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng tích cực, giúp các nước đang phát triển thúc đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngoài ra FDI còn tạo ra sự liên kết kinh tế với các cơ sở kinh tế trong nước. Mặt khác các doanh nghiệp nội địa cũng mở rộng được quy mô sản xuất nhờ cung cấp nguyên liệu và dịch vụ cho các công ty nước ngoài.
Tuy nhiên nếu xét về mặt tổng thể thì FDI vẫn có những vai trò rất tích cực đối với nước mà có nền kinh tế phát triển đang muốn đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển đất nước. Vì vậy những nước này đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư của mình để thu hút FDI phục vụ công nghiệp hoá và phát triển đất nước.
1.1.4. Các nhân tố tác động đến việc thu hút FDI
Bất kì một quyết định đầu tư nào của nhà đầu tư cũng sẽ bị ảnh hưởng của môi trường đầu tư nước ngoài, nó không chỉ bị ảnh hưởng của môi trường đầu tư này mà còn bị ảnh hưởng của môi trường đầu tư ở chính nước họ và môi trường đầu tư quốc tế. Tuy nhiên môi trường đầu tư nước ngoài có vị trí đặc biệt quan trọng và có vai trò quyết định đối với dòng đầu tư quốc tế vào nước chủ nhà. Môi trường này gồm các nhân tố sau:
* Tình hình chính trị
Có thể nói, sự ổn định về chính trị là nhân tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút FDI của nước chủ nhà. Các nhà đầu tư khi quyết định đem vốn ra đầu tư nước ngoài, họ luôn luôn đặt vấn đề ổn định chính trị của nước nhận đầu tư lên hàng đầu. Bởi vì FDI thường là dòng vốn đầu tư lớn và dài hạn, nó hoạt động trong một môi trường xa lạ vì vậy các chủ đầu tư rất sợ rủi ro đối với đồng vốn của
mình. Họ luôn đặt sự an toàn vốn lên hàng đầu. Nếu tình hình chính trị của nước chủ nhà bất ổn, thường xuyên xảy ra đảo chính sẽ làm cho các nhà đầu tư lo ngại do các cam kết của Chính phủ đối với hoạt động đầu tư nước ngoài có thể không được Chính phủ thực hiện, ví dụ như các cam kết không quốc hữu hoá tài sản của người nước ngoài hoặc do sự thay đổi Chính phủ mà đường lối phát triển không nhất quán gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư của mình. Bên cạnh đó nếu có sự bất ổn định chính trị, có sự thay đổi Chính phủ thì các khuyến khích đối vơí các nhà đầu tư có thể cũng sẽ không được duy trì, điều này cũng sẽ gây cản trở cho các nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước sở tại và rủi ro đối với đồng vốn của họ là hoàn toàn lớn. Các định hướng đầu tư của nước chủ nhà cũng có thể bị thay đổi vì các nhà đầu tư FDI thường có chiến lược kinh doanh dài hạn nên họ rất cần sự ổn định và nhất quán trong định hướng đầu tư, nếu định hướng đầu tư có sự thay đổi chắc chắn sẽ làm cho các nhà đầu tư giảm lợi nhuận đi rất nhiều, hoặc bị thua lỗ. Tất cả những yếu tố trên đều gây ra rủi ro rất lớn đối với đồng vốn của nhà đầu tư. Một môi trường chính trị ổn định sẽ làm cho các nhà đầu tư hoàn toàn an tâm khi bỏ vốn ra đầu tư.
*Chính sách pháp luật
Do hoạt động đầu tư liên quan đến rất nhiều các hoạt động khác của nước sở tại. Nhà đầu tư rất cần một môi trường chính sách - pháp luật vững chắc và có hiệu lực. Nếu các chính sách, quy định chồng chéo, không nhất quán, không đồng bộ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư, họ sẽ không biết phải tuân theo các chính sách, quyết định nào cho đúng. Điều này sẽ cản trở rất nhiều đến họat động kinh doanh của họ. Bên cạnh đó các quy định và thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài rườm rà, các vấn đề về xin giấy phép đầu tư, giải quyết các vấn đề khiếu kiện làm các nhà đầu tư phải đi lại quá nhiều gây cho họ cảm thấy chán nản. Đặc biệt ở những nước đang phát triển, tình trạng cửa quyền, sách nhiễu là rất phổ biến khiến các nhà đầu tư rất nản lòng và góp phần làm tăng rủi ro đối với hoạt động của họ. Khi hoạt động kinh doanh trong một môi trường như vậy, các nhà đầu tư sẽ không muốn bỏ vốn ra để đầu tư. Ngược lại nếu những chính sách, quy định, thủ tục vững chắc, nhất quán và đồng bộ sẽ tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư, cho phép
họ có được những quyết định chính xác đem lại hiệu quả kinh tế do không sợ có sự thay đổi của chính sách và quy định pháp luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
* Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Khi các nhà đầu tư quyết định bỏ vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh, chắc chắn họ sẽ xem xét đến vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ở nơi đó. Đây là những yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của đồng vốn. Đối với các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá hay dịch vụ giữa điểm sản xuất và điểm tiêu thụ. Nếu vị trí thuận lợi, không cách trở sẽ làm giảm chi phí vận chuyển, giảm giá thành, tăng lợi nhuận cho các nhà đầu tư đồng thời hạn chế được rủi ro. Nếu nước chủ nhà lại có điều kiện tự nhiên thuận lợi ví dụ như tài nguyên phong phú cung cấp đầu vào với giả rẻ thì càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, giúp các nhà đầu tư có một nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định với giá thấp. Đây là yếu tố rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
1.2. TỔNG QUAN VỀ FDI TẠI VIỆT NAM
1.2.1. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua ba hình thức chủ yếu sau:
- Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Hình thức doanh nghiệp liên doanh
- Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Ngoài ra Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam cũng quy định thêm đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được đầu tư theo các phương thức đặc biệt như doanh nghiệp chế xuất, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT)
* Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở mức nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và mỗi bên thực hiện nghĩa vụ theo quy định trong hợp đồng. Kết quả phụ thuộc vào sự tồn tại và thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên hợp doanh.
Luật còn quy định thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh, bên Việt Nam nộp thuế áp dụng cho doanh nghiệp trong nước, bên nước ngoài nộp thuế theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được kết thúc trước thời hạn nếu thoả mãn đủ các điều kiện quy định trong hợp đồng. Hợp đồng cũng có thể được kéo dài khi có sự đồng ý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
* Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc ký hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh cũng có thể được thành lập do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó phần góp vốn cuả nước ngoài không hạn chế mức tối đa, nhưng mức tối thiểu theo quy định của luật không dưới 30% vốn pháp định.
Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại.
Số người tham gia hội đồng quản trị lãnh đạo doanh nghiệp của các bên phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn. Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất lãnh đạo liên doanh. Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí đối với các vấn đề quan trọng như: Duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, sửa đổi
bổ sung điều lệ doanh nghiệp, vay vốn đầu tư, bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất và kế toán trưởng... lợi nhuận và rủi ro của doanh nghiệp liên doanh này được phân chia theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên.
Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam còn quy định thời gian hoạt động của liên doanh thông thường từ 30 năm đến 50 năm, trong trường hợp đặc biệt không quá 70 năm. Doanh nghiệp liên doanh phải giải thể khi hết thời hạn hoạt động trừ khi việc kéo dài thời gian hoạt động đã được cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác và đầu tư chuẩn y. Đồng thời doanh nghiệp liên doanh cũng có thể kết thúc hợp đồng sớm hơn trong một số trường hợp đặc biệt như: Gặp bất khả kháng, một hoặc các bên liên doanh không thực hiện nghĩa vụ quy định trong hợp đồng...
*Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
* Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao(BOT)
Là một phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu, hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao thường được thực hiện bằng vốn nước ngoài 100%, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của chính phủ Việt Nam hoặc các tổ chức, cá nhân Việt Nam. Trong hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh công