Khung Phân Tích Mối Liên Hệ Giữa Vốn Xã Hội Với Các Hoạt Động Của Nhtm


hoạt động tín dụng và trung gian thanh toán. Các hoạt động này bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đặc thù khu vực trong hoạt động của các chi nhánh ngân hàng.

Leonard Onyiriuba (2016), trong nghiên cứu đánh gía rủi ro trong hoạt động ngân hàng (cơ bản gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay và hoạt động trung gian) và ảnh hưởng của nó đến kết quả của ngân hàng ở các nền kinh tế đang phát triển. Tác giả đã chỉ ra gian lận chính là một mối đe dọa nội bộ điển hình, đặc biệt trong các hoạt động của ngân hàng, thì cho vay gian lận có xác suất khá cao, gây ảnh hưởng đến kết quả ngân hàng một cách sâu sắc.

Abramova, et al (2016), bài viết xem xét về sự chuyển đổi hoạt động của hệ thống ngân hàng Nga trong giai đoạn hiện tại, đòi hỏi các biện pháp điều chỉnh sự tương tác trong điều kiện toàn cầu hóa. Bài viết cũng nhấn mạnh ba hoạt động chính cơ bản của bất kỳ ngân hàng nào cũng gồm hoạt động huy động từ tiết kiệm, hoạt động tín dụng và hoạt động trung gian.

Bakam Fotso, E.I Edoun (2017), trong bài nghiên cứu đánh giá về hoạt động của các ngân hàng ở Châu Phi đã nhấn mạnh vai trò của ngân hàng đối với nền kinh tế thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, đầu tư, cung ứng dịch vụ. Bằng cách sử dụng phân tích tỷ lệ tài chính (FRA) và thống kê mô tả qua phân tích báo cáo tài chính của 4 ngân hàng lớn ở Châu Phi, mục đích của nghiên cứu là thiết lập mối quan hệ giữa nội sinh và ngoại sinh của biến hiệu suất ngân hàng. Kết quả chứng minh có mối liên hệ chặt chẽ giữa hiệu suất ngân hàng và kích thước ngân hàng vì khối lượng tài sản đại diện cho nguồn thu nhập của ngân hàng lớn hơn.

Nghiên cứu trong nước

Các tác giả Nguyễn Thị Mùi (2007), Nguyễn Đăng Dờn (2009), Trầm Thị Xuân Hương (2012) đã chỉ ra các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM gồm thứ nhất là nghiệp vụ nguồn vốn: NHTM được sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà pháp luật cho phép để hình thành nguồn vốn đáp ứng các hoạt động của NHTM. Thành phần nguồn vốn gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay, vốn khác….Nghiệp vụ tiếp theo của NHTM là nghiệp vụ sử dụng vốn: đây là nghiệp vụ phân phối các nguồn vốn đã hình thành của ngân hàng. Nghiệp vụ này gồm: mua sắm


tài sản cố định, dự trữ, cấp tín dụng, đầu tư. Ngoài hai nghiệp vụ trên, còn nghiệp vụ trung gian, với vai trò là đơn vị trung gian, NHTM sẽ cung ứng các dịch vụ cho khách hàng để được hưởng hoa hồng và phí dịch vụ như: dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thanh toán, thu chi hộ, cho thuê két sắt, tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, môi giới kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh mua bán ngoại tệ…

Theo điều 5 NĐ số 59/2009 NĐ-CP ngày 16/7/2009 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại thì ngân hàng thương mại được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của luật các tổ chức tín dụng: Các hoạt động của một ngân hàng bao gồm: Huy động vốn, sử dụng vốn (thông thường là cho vay) và vai trò trung gian. Các hoạt động kinh doanh khác có thể tùy thuộc vào năng lực kinh doanh của từng ngân hàng thương mại mà có những loại hình khác nhau, như ngân hàng điện tử, quản lý tài sản, cho thuê… Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010, số 47/2010/QH12, ngày 16/6/2010, hoạt

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.


Đánh giá tác động của vốn xã hội đến hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 8

Theo các luận điểm trên, có thể khái quát các hoạt động của NHTM gồm: (1) hoạt động nguồn vốn: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay, vốn khác; (2) hoạt động sử dụng vốn: mua sắm tài sản cố định, dự trữ, cấp tín dụng, đầu tư; (3) hoạt động cung ứng dịch vụ: dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thanh toán, thu chi hộ, cho thuê két sắt, tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, môi giới kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh mua bán ngoại tệ… Thực chất nghiệp vụ nguồn vốn, sử dụng vốn là nghiệp vụ tài sản nợ, nghiệp vụ tài sản có. Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ trung gian hoa hồng.

Hiểu một cách tổng quát về hoạt động cơ bản của NHTM là thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ nguồn vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và nghiệp vụ cung ứng dịch vụ nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.

2.2.1 Nghiệp vụ nguồn vốn


Là những nghiệp vụ hình thành vốn của NHTM, bao gồm: vốn chủ sở hữu (vốn tự có), vốn huy động, vốn vay và vốn khác.

Vốn tự có

Vốn tự có của Ngân hàng bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự trữ.

Vốn điều lệ được hình thành bằng cách các chủ sở hữu đóng góp vốn vào. Nguồn vốn này yêu cầu phải bằng hoặc lớn hơn vốn pháp định. Nguồn gốc vốn điều lệ phụ thuộc vào hình thức sở hữu của ngân hàng. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì vốn điều lệ là của Nhà nước; nếu là ngân hàng cổ phần thì vốn điều lệ là vốn góp bởi các cổ đông; nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn đó là của cá nhân; nếu là ngân hàng liên doanh thì vốn điều lệ là vốn đóng góp của các bên liên doanh tham gia. Vốn điều lệ được ghi vào điều lệ hoạt động ngân hàng và giấy phép kinh doanh của NHTM. Vốn chủ sở hữu tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của NHTM, nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định năng lực tài chính, quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của NHTM.

Các quỹ của ngân hàng: ngân hàng hình thành các quỹ như quỹ dự trữ; quỹ dự phòng rủi ro; quỹ khen thưởng, phúc lợi..Hầu hết các quỹ đều được trích ra từ lợi nhuận ròng hàng năm, một số quỹ không trích từ lợi nhuận ròng mà tính vào chi phí như quỹ dự phòng rủi ro.

Lợi nhuận chưa chia: lợi nhuận ròng hàng năm chưa chia và chưa sử dụng.


Vốn huy động


Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nguồn vốn của NHTM, là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Thông qua thực hiện nghiệp vụ này, NHTM có nguồn vốn để thực hiện cho vay, đầu tư tìm kiếm lợi nhuận.

Nguồn vốn huy động gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn; tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn; tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn; phát hành kỳ phiếu, trái phiếu NHTM, chứng chỉ tiền gửi và các công cụ nợ khác; các khoản tiền gửi khác.

Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào không cần báo trước về thời hạn và số lượng tiền cần rút. Đối với khách hàng gửi


tiền dưới hình thức này không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện các dịch vụ thanh toán, chi trả và ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong thanh toán. Cũng từ tính chất của loại tiền gửi này là không quy định thời gian nên không ổn định, biến động thường xuyên. Bù lại hình thức huy động vốn này chi phí thấp do không phải trả lãi hoăc lãi thấp cho khách hàng.

Loại tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi chỉ có thể rút ra và hưởng đầy đủ lợi tức sau thời hạn định trước. Mục đích của người gửi tiền dưới hình thức này là hưởng lãi vì lãi suất cao hơn hình thức khác nên loại tiền gửi này ít biến động. Tuy nhiên trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau nên khách hàng có nhu cầu rút trước hạn. Trong trường hợp này nhiều ngân hàng vẫn cho phép khách hàng được rút ra trước thời hạn nhưng hưởng lãi suất thấp.

Ngân hàng muốn tăng nguồn vốn này phải trả lãi thỏa đáng sao cho người gửi vừa được bảo đảm an toàn về vốn vừa có khoản thu nhập hợp lý từ tiền gửi của mình. Loại tiền gửi này ít biến động nên ngân hàng có thể chủ động trong việc sử dụng để cho vay. Cũng vì lý do này nên các ngân hàng rất quan tâm đến hình thức huy động này.

Ngoài hình thức huy động vốn từ tiền gửi, ngân hàng còn huy động vốn thông qua phát hành các loại giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu có mục đích. Thực chất đây là các giấy nợ mà ngân hàng phát hành ra nhằm huy động vốn phục vụ cho một mục đích nhất định nào đó nhưng không mang tính chất thường xuyên và cần thiết.

Vốn vay

Đây là nguồn vốn được thực hiện trong điều kiện khi NHTM có nhu cầu sử dụng nhưng việc huy động không đáp ứng phải vay từ các ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng. Trong những trường hợp cấp bách mà ngân hàng không thể vay được ở các ngân hàng, thì có thể vay ở ngân hàng trung ương. Vì lẽ đó nên ngân hàng trung ương cấp vốn cho NHTM với tư cách là người cho vay cuối cùng.

Vốn khác


Vốn tài trợ, ủy thác: nguồn vốn này được hình thành từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước, từ Ngân sách nhà nước… để tài trợ cho các chương trình, dự án về phát triển kinh tế xã hội, … Nguồn vốn này chỉ được sử dụng theo đúng đối tượng và mục tiêu đã được xác định.

Vốn điều hòa trong hệ thống NHTM: điểu chuyển vốn từ chi nhánh thừa sang chi nhánh thiếu vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, cân đối vốn trong toàn bộ hệ thống NHTM. Chi phí nhận nguồn vốn điều hòa này thấp hơn chi phí huy động nhưng các ngân hàng chỉ nhận được nguồn vốn này sau khi đã lập kế hoạch về lượng vốn huy động được trong kỳ sau.

Vốn khác là nguồn vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động của Ngân hàng như cung ứng dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, đại lý chuyển tiền kiều hối, các hình thức dịch vụ khác…

2.2.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn

Là nghiệp vụ NHTM sử dụng nguồn vốn của mình vào những mục đích nhất định. Bao gồm:

Mua sắm Tài sản cố định

NHTM sử dụng một phần vốn tự có để xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa làm trụ sở văn phòng, mua sắm trang thiết bị, máy móc dụng cụ làm việc, mua sắm các phương tiện vận chuyển, xây dựng hệ thống kho quỹ….phục vụ cho hoạt động của ngân hàng.

Dự trữ

Nghiệp vụ này thể hiện ở chỗ, NHTM sử dụng một phần nguồn vốn của mình để dự trữ nhằm trang trải các nhu cầu thanh toán thường xuyên cho khách hàng và phục vụ các hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng. Lượng tiền này bao gồm tiền mặt tại quỹ; tiền gửi tại các ngân hàng thương mại khác; tiền gửi tại NHTW, trong đó có tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi thanh toán; dự trữ các giấy tờ có giá…

Cấp tín dụng

Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân thông qua các hình thức: cho vay; chiết khấu;


cho thuê tài chính; bảo lãnh ngân hàng; các hình thức khác như đồng tài trợ, cho vay hợp vốn, cho vay liên kết..

Có thể nói trong hoạt động kinh doanh của mình, NHTM sử dụng phần lớn nguồn vốn của mình vào việc cho vay các chủ thể kinh tế là doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân. Nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho NHTM. Các hình thức cho vay của NHTM bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong đó cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trong lớn nhất.

Đầu tư

Mục đích của nghiệp vụ này nhằm phân tán rủi ro, vừa sinh lời. Nghiệp vụ này thể hiện ở chổ NHTM đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp thông qua góp vốn liên doanh, liên kết, thành lập công ty con, mua cổ phần, trái phiếu doanh nghiệp; đầu tư gián tiếp: mua trái phiếu chính phủ, tín phiếu ngân hàng trung ương.

2.2.3 Nghiệp vụ cung ứng dịch vụ

Thực chất là nghiệp vụ trung gian hoa hồng, nhằm đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận và phục vụ khách hàng. NHTM thực hiện các dịch vụ ngân hàng có thu phí như: dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ thanh toán, thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…); dịch vụ cho thuê két sắt (nhận bảo quản các tài sản quý giá, các giấy tờ chứng thư quan trọng); kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý; dịch vụ tư vấn tài chính; dịch vụ tư vấn đầu tư; dịch vụ môi giới kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm (bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo ủy nhiệm của khách hàng, giúp đỡ các công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu).

Trong xu thế hiện nay, các NHTM rất chú trọng kinh doanh đa năng nên các sản phẩm nghiệp vụ này càng phát triển.

Có thể nói hoạt động kinh doanh của NHTM rất đa dạng và phong phú, các nhóm hoạt động của NHTM có mối liên hệ mật thiết và tương hỗ lẫn nhau. Do đó để đánh giá toàn diện kết quả hoạt động của NHTM cần đánh giá cả ba nhóm hoạt động, cũng như khi xem xét tác động của vốn xã hội tới hoạt động của NHTM cần đánh giá tác động của nó vào cả ba nhóm hoạt động này.


2.3 KHUNG PHÂN TÍCH CỦA NGHIÊN CỨU

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu tác động của vốn xã hội tới các hoạt động của các NHTM. Để đạt được mục tiêu này, cần phải xây dựng và kiểm định thang đo cho vốn xã hội và các hoạt động của NHTM. Sau đó phân tích tác động của vốn xã hội tới các hoạt động của các NHTM. Qua lược khảo các lý thuyết về vốn xã hội, cho thấy thang đo về vốn xã hội còn chưa đề cập đầy đủ tới các mạng lưới quan hệ có liên quan đến tất cả các hoạt động của ngân hàng, chính vì vậy chưa có một luận chứng khoa học giúp NHTM tạo lập, đánh giá, sử dụng, phát triển vốn xã hội. Quan trọng hơn, hầu hết các nghiên cứu được lược khảo thực hiện với đối tượng là ngành khác, không phải ngành ngân hàng nên các thang đo đưa ra không phù hợp cho việc phát triển, xây dựng vốn xã hội cho ngành ngân hàng. Đề tài nghiên cứu sẽ cố gắng khắc phục các khiếm khuyết nêu trên bằng cách xây dựng thang đo vốn xã hội của ngân hàng bao gồm các mạng lưới mối quan hệ có liên quan đến lãnh đạo, bên ngoài và bên trong ngân hàng.

Mặt khác, đối với các hoạt động của NHTM, đề tài sẽ xây dựng thang đo cho từng nhóm hoạt động của NHTM. Từ đó là cơ sở cho việc đánh giá kết quả hoạt động của các NHTM. Thang đo vốn xã hội và các nhóm hoạt động trong NHTM được xây dựng trên cơ sở lý thuyết được lược khảo ở phần trên, kết hợp với nghiên cứu định tính tại các NHTM Việt Nam.


Hình 2.1: Khung phân tích mối liên hệ giữa vốn xã hội với các hoạt động của NHTM


Vốn xã hội của ngân hàng Hoạt động của NHTM


Vốn xã hội

của lãnh đạo

Hoạt động nguồn vốn

Vốn xã hội bên ngoài

Vốn xã hội của ngân hàng

Hoạt động của NHTM

Hoạt động sử dụng vốn

Vốn xã hội bên trong

Hoạt động cung ứng dịch vụ


: quan hệ hỗ trợ

: biểu hiện/đề cập

Nguồn: đề xuất của tác giả luận án

Với mục tiêu phân tích tác động của vốn xã hội đến các hoạt động của NHTM, các giả thuyết được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết có liên quan và thực tiễn tại Việt Nam, được các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam thừa nhận. Những giả thuyết nghiên cứu này được kiểm định về mặt định lượng để khẳng định tác động của vốn xã hội tới các hoạt động của NHTM.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 28/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí