hàng Trung Quốc như hiện nay. Nhiều doanh nghiệp, các hộ nông dân, ngư dân, các làng nghề truyền thống do không đủ khả năng xây dựng hệ thống phân phối riêng sẽ tìm cách vươn ra thị trường thế giới bằng hình thức giao dịch điện tử.
- Phương thức phân phối truyền thống, mua đứt bán đoạn vẫn tồn tại song song với các hình thức phân phối hiện đại nhưng sẽ dần thu hẹp và suy yếu, các nhà phân phối trong nước sẽ trưởng thành và học hỏi được nhiều kinh nghiệm tổ chức quản lý và hiện đại hóa hệ thống của các nhà phân phối nước ngoài để tự củng cố hệ thống của mình. Người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ những cải cách này. Trước mắt, các Tập đoàn phân phối nước ngoài sẽ tập trung vào mở các siêu thị bán buôn và bán lẻ, nhưng dân dần họ sẽ mở rộng sang các hình thức bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng tận nhà... Các hình thức này sẽ được du nhập, từng bước hình thành và phát triển ở nước ta. Các công ty sản xuất trong nước, đặc biệt là các công ty sản xuất và xuất khẩu nông thủy sản sẽ phân phối qua thị trường nước ngoài dưới các hình thức mới như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng chọn ...
Tóm lại, hệ thống phân phối ở nước ta đang chuyển mình theo hướng hiện đại hóa nhưng vẫn còn mang nặng đặc điểm của một nền thương nghiệp quy mô nhỏ. Cùng với quá trình thực hiện các cam kết quốc tế và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, trên “sân chơi” sẽ xuất hiện nhiều “gã khổng lồ” đến từ nước ngoài, các loại hình phân phối cũng sẽ phát triển đa dạng. Trong bối cảnh đó, yếu tố sống còn quyết định sự tồn tại của hệ thống phân phối quốc gia là ý thức liên kết của các doanh nghiệp và vai trò hỗ trợ của Nhà nước. Sự liên kết giữa các nhà sản xuất, các nhà phân phối trong nước cộng với ý thức thay đổi trong phương thức kinh doanh tập hợp thành một khối, đủ sức làm đối trọng với các nhà phân phối nước ngoài. Nhà nước bên cạnh việc
tìm biện pháp tổ chức lại hệ thống phân phối bán lẻ, cần phải có những quyết sách ưu đãi về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tập hợp các nguồn lực nhỏ lẻ thành hệ thống nhất quán, có chiều sâu. Nhưng hơn hết, Nhà nước cần phải khẳng định vai trò điều tiết thị trường theo hướng lành mạnh hóa, tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà phân phối không phân biệt thành phần kinh tế, đồng thời nắm các nhà phân phối lớn để có thể chủ động trước những biến động của thị trường.
3.2. Các giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ phân phối bán lẻ của Việt Nam một cách hợp lý và có chọn lọc theo lộ trình cam kết WTO
Từ những nghiên cứu ở trên, có thể thấy mở cửa dịch vụ bán lẻ phải theo một định hướng, có sự điều tiết chứ không phải cứ thu hút ồ ạt để nhường chỗ cho nhà bán lẻ nước ngoài mặc nhiên thâu tóm thị trường lúc nào không hay. Trên thực tế, chúng ta đã mở cửa cho một số nhà phân phối nước ngoài lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài trước khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp này không nhiều, kèm theo một số hạn chế hoạt động nhất định nên nhìn chung, trong thời gian qua, thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn có mức tăng trưởng đều, kích thích sản xuất và tiêu dùng. Nhưng không vì vậy mà chúng ta chủ quan trước dòng vốn FDI chảy vào trong thời gian tới bởi lẽ cam kết WTO về dịch vụ phân phối của Việt Nam đã mở ra hành lang rất thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài vốn hơn hẳn doanh nghiệp bán lẻ trong nước tiến hành khai thác thị trường. Nếu không có một kế hoạch thu hút có chọn lọc, trọng điểm thì nguy cơ nhiều doanh nghiệp, cửa hàng dân doanh lâm vào tình trạng phá sản kéo theo nhiều vấn đề xã hội khác rất là rõ. Từ kinh nghiệm mở cửa của Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, trước mắt, nhà nước và bản thân doanh nghiệp cần có sự điều chỉnh, biện pháp cụ thể để có thể điều tiết dòng vốn FDI vào dịch vụ bán
lẻ, từ từ tạo điều kiện cho doanh nghiệp bán lẻ trong nước nâng cao sức cạnh tranh và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó.
3.2.1. Các giải pháp về phía nhà nước
Từ kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới khi mở cửa dịch vụ bán lẻ, có thể thấy nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ có thể tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng vẫn có thể thúc đẩy FDI bằng một số biện pháp sau:
3.2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Có thể bạn quan tâm!
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ phân phối bán lẻ theo lộ trình cam kết WTO - 8
- Dự Báo Phát Triển Ngành Dịch Vụ Phân Phối Bán Lẻ Của Việt Nam Theo Lộ Trình Cam Kết Wto
- Xu Hướng Chi Tiêu Cá Nhân Của Người Tiêu Dùng Việt Nam
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ phân phối bán lẻ theo lộ trình cam kết WTO - 12
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ phân phối bán lẻ theo lộ trình cam kết WTO - 13
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Bán lẻ là ngành có vị trí quan trọng trong hệ thống phân phối hàng hóa nền kinh tế quốc dân nên bản thân nó đòi hỏi những quy định, quy chế riêng. Trong khi đó, hệ thống luật pháp nước ta lại tỏ ra kém hiệu quả do thường xuyên có sự bổ sung, điều chỉnh, gây ra tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư.
Vấn đề cấp thiết bây giờ là nhà nước cần thống nhất các quy định về hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài ban hành kèm theo các hướng dẫn cụ thể đến từ đơn vị quản lý. Việc thống nhất này sẽ tạo môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch và dễ áp dụng cho các cấp chính quyền quản lý và tiết kiệm thời gian và chị phí cho các nhà đầu tư. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc hay Thái Lan – những quốc gia mở cửa trước chúng ta để vận dụng những điểm phù hợp và tránh các biện pháp sai lầm. Có một biện pháp quản lý vận hành của hoạt động bán lẻ là việc thiết lập Luật Kinh doanh bán lẻ như ở Trung Quốc, xây dựng các quy chế và tiêu chuẩn phát triển cho các loại hình bán lẻ.
Nhà nước cần điều chỉnh các khung pháp lý sao cho phù hợp với cam kết quốc tế, thu hút có chọn lọc vốn đầu tư nước ngoài và vừa kiểm soát hoạt động, tránh tình trạng đầu tư lũng đoạn thị trường. Thực tế hiện nay, các
doanh nghiệp trong nước vẫn muốn được nhà nước bảo hộ, hạn chế sự mở rộng và đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài. Việc đưa ra quy định kiểm tra nhu cầu thực tế (ENT) tại địa phương trước khi cấp phép cho nhà đầu tư nước ngoài là một cách mà nhiều nước áp dụng. Để tránh tình trạng 64 tỉnh thành có 64 cách áp dụng khác nhau dẫn đến việc kiểm soát FDI khó khăn, nhà nước nên có hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí đánh giá như: mật độ dân cư trong khu vực là bao nhiêu thì phù hợp hay quy hoạch vùng như thế nào thì sẽ dẫn đến tình trạng mỗi tỉnh có một cách áp dụng khác nhau. Chẳng hạn, điểm bán lẻ thứ hai được cấp phép tại TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội nếu đang có ít hơn 30 cơ sở bán lẻ thương mại hiện đại thì khoảng cách là 25 km tính từ trung tâm thành phố, ở đô thị loại I, II nếu có ít hơn 10 cơ sở thì khoảng cách là 10 km, còn các đô thị còn lại, thị xã, thị trấn ít hơn 5 cơ sở thương mại hiện đại đang hoạt động động thì khoảng cách xây dựng cơ sở thứ hai là 3 km.
Việc kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư của nhà bán lẻ quốc tế hiện nay là cần thiết khi thành phần kinh tế của ta tham gia thị trường còn nhiều mặt yếu kém. Tuy nhiên, việc xây dựng quá nhiều rào cản sẽ có tác động ngược lại đối với thị trường bán lẻ trong nước, là nguyên nhân của môi trường đầu tư kém hấp dẫn và hình thành những tiêu cực cấp phép và ưu đãi về mặt hàng ở nhiều địa phương. Do vậy, chính phủ cần ban hành chính sách định hướng phát triển thương mại nội địa phù hợp đảm bảo vừa khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đổi mới và phát triển, vừa thu hút có chọn lọc nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
3.2.1.2. Xây dựng quy hoạch tổng thể
Đối với lĩnh vực phân phối bán lẻ thì mặt bằng là một trong những yếu tố quyết định đối với doanh số bán hàng. Vì vậy, chính phủ cần tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong khâu cấp đất, giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bán lẻ nhanh chóng đi vào hoạt động và phát triển theo hướng thuận lợi nhất. Tại Hà Nội và
TP.Hồ Chí Minh, nơi những mặt bằng đẹp đang được tăng cường tận dụng thì chính phủ nên quy hoạch thống nhất những vị trí có thể đầu tư xây dựng những trung tâm thương mại nhằm đảm bảo sự tiện lợi cho việc kinh doanh của các tập đoàn nước ngoài, sự hài lòng của người tiêu dùng Việt Nam đồng thời phù hợp với quy hoạch địa bàn của cả nước. Theo đó, các mô hình kinh doanh bán lẻ cần diện tích lớn như: siêu thị, trung tâm thương mại... nên định hướng quy hoạch ở vùng ngoại ô, tránh tình trạng ách tắc giao thông và hỗ trợ các doanh nghiệp phân phối trong nước có cơ hội cạnh tranh. Đối với các tỉnh chưa phát triển kênh phân phối hiện đại, kênh phân phối truyền thông còn chiếm tỉ lệ lớn nhưng có lợi thế về diện tích đất, chính quyền có thể khuyến khích đầu tư nước ngoài bằng cách xét duyệt cho các vị trí thuận lợi cho sự phát triển của dự án. Các tỉnh này cần tập trung cho công tác quy hoạch, xử lý và cung cấp thông tin cần thiết, các hoạt động xúc tiến thương mại, kiểm tra và kiểm soát thị trường.
Chính sách quy hoạch phải xác định cụ thể nơi nào sẽ ưu tiên cho doanh nghiệp trong nước, nơi nào kêu gọi đầu tư. Đặc biệt, khi đấu giá quyền sử dụng đặt ở các vị trí thuận lợi cần dựa trên quy hoạch chứ không phải là mức giá.
Thông qua quy hoạch và các điều kiện thiết lập cơ sở bán lẻ, cần có quy định hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng tập trung hóa về độc quyền nhóm mua trong lĩnh vực bán lẻ với giá cả và việc làm như hạn chế cấp phép xây dựng cơ sở bán lẻ mới ở những khu vực đã có cơ sở cùng loại hình.
Trong quá trình thực hiện quy hoạch địa bàn tỉnh, thành phố, các dự án đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng các mô hình mua sắm hiện đại có thể đi liền với các khu du lịch, khu vui chơi, giải trí có rất nhiều khách du lịch nước ngoài có nhu cầu mua sắm lớn, đặc biệt là các loại hàng hóa cao cấp, chất lượng. Bố trí các cơ sở bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài ở đây, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cơ sở này, vừa đẩy mạnh phát triển ngành
du lịch, thương mại... quy hoạch hài hòa, thống nhất giữa các địa phương và với quy hoạch chung của cả nước. Tăng lượng khách du lịch nước ngoài và tăng mức chi tiêu của những du khách này ở các siêu thị, trung tâm thương mại sẽ đảm bảo mức gia tăng doanh thu bán lẻ trên địa bàn. Nhà nước có thể ưu tiên, khuyến khích đối với các dự án đầu tư vào nơi có cơ sở du lịch nổi tiếng ở nước ta.
3.2.1.3. Tăng cường công tác xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại
Cơ sở hạ tầng cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của chủ đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp không thể hoạt động hiệu quả nếu thiếu các yếu tố cơ bản như: đường sá, điện, nước, phương tiện thông tin liên lạc, mặt bằng kinh doanh thuận lợi. Có những yếu tố cơ bản này rồi thì từng loại hình kinh doanh lại cần những yếu tố đặc thù riêng. Đối với dịch vụ bán lẻ, việc thu hút đầu tư nước ngoài phụ thuộc rất lớn vào mức độ thống nhất, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Tăng cường xây dựng các cơ sở hạ tầng kĩ thuật cần chú trọng đến vấn đề sau:
- Nhà nước cần có những quy định về tiêu chuẩn thiết kế siêu thị, chợ... để quy hoạch và kiểm soát tốt hơn trong việc xây dựng trang thiết bị kĩ thuật của các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường ngân sách cho các dự án xây dựng công trình giao thông, sửa chữa kịp thời những hệ thống đường sá hư hỏng, xây mới các con đường lớn, đa dạng hóa các phương thức vận tải theo quy hoạch để tránh tình trạng ách tắc giao thông bởi lẽ giao thông là huyết mạch của nền kinh tế. Giao thông phát triển tạo điều kiện cho việc đi lại, mua sắm của người tiêu dùng thuận tiện, giảm chi phí vận chuyển cho nhà bán lẻ khi cần đưa hàng hóa từ điểm thu mua về kho lưu trữ và từ kho lưu trữ về cơ sở phân phối bán lẻ.
- Đảm bảo việc cung cấp điện, nước đầy đủ cho các doanh nghiệp bán
lẻ.
- Tăng cường xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu thông tin về thị trường, nguồn cung cấp; tự động hóa quy trình quản lý hàng hóa trong kho, trên các kệ hàng cũng như quản lý việc vận chuyển thanh toán, nhất là mở rộng, phát triển Internet băng thông rộng kết nối mạng lưới các cửa hàng của các nhà bán lẻ trên phạm vi toàn cầu. Một trong những thế mạnh của các nhà bán lẻ nước ngoài là trình độ công nghệ mà được thể hiện rõ nét nhất là việc tự động bán hàng, tự động marketing, tự động quán lý quan hệ khách hàng. Nhưng để phát huy thế mạnh này đòi hỏi nước nhận đầu tư phải có trình độ nhất định về cơ sở hạ tầng thông tin, tốc độ truyền Internet, mạng lưới trạm thu phát sóng hoạt động ổn định, chất lượng. Do vậy, để khuyến khích hoạt động đầu tư trong và ngoài nước, nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin, hướng đến xu hướng phát triển chung của thế giới.
Ngoài ra, các cơ quan chức trách nên phối hợp với nhau để đẩy nhanh việc hiện đại hóa hạ tầng cơ sở, tạo điều kiện phát triển không chỉ bán lẻ mà còn rất nhiều các ngành, lĩnh vực khác.
3.2.1.4. Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp 3.2.1.4.1. Hỗ trợ đối với các doanh nghiệp sản xuất
Khi tiến hành các hoạt động kinh doanh phân phối bán lẻ, các tập đoàn bán lẻ hàng đầu luôn tìm cách tận dụng mọi nguồn lực để giảm chi phí và tăng lợi nhuận. Họ tìm đến các nhà sản xuất lớn trong nước hay các doanh nghiệp chuyên nhập khẩu để có nguồn hàng cung ứng ổn định, mua số lượng lớn với giá rẻ để giảm chi phí đầu vào và cũng là để tiết kiệm chi phí vận chuyển hơn so với nhập khẩu toàn bộ hàng hóa từ nước ngoài. Cắt giảm chi phí là một trong những nhân tố khiến giá thành của họ cạnh tranh hơn và có thời gian, nhân lực, vật lực để phát triển các dịch vụ tiện ích gia tăng. Do vậy, muốn thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành kinh tế, nhất là dịch vụ bán lẻ thì nhà nước cần có biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp sản
xuất tập trung chuyên môn hóa sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm bằng các biện pháp như:
- Giảm thuế, phí, nới rộng thời gian nộp thuế, đưa ra mức thuế suất ưu đãi cho các doanh nghiệp ở vùng khó khăn
- Hỗ trợ về vốn thông qua các chương trình ưu đãi về tín dụng, các quỹ phát triển, nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài
- Khuyến khích thành lập các hiệp hội, các nhà sản xuất hỗ trợ nhau cùng phát triển, tìm đầu mối phân phối hay tạo ra thế mạnh khi thương lượng về giá và các điều kiện liên quan. Chẳng hạn, thời gian qua đã có Hiệp hội cà phê, Hiệp hội may mặc...
- Hỗ trợ về chuyên gia và công nghệ phát triển sản phẩm, ngành hàng mới, phong phú và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
3.2.1.4.2. Hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phân phối
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực phân phối, nhà nước cũng cần hỗ trợ để các doanh nghiệp này nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình, tránh tình trạng phá sản hàng loạt khi các tập đoàn nước ngoài thành lập doanh nghiệp 100% vốn của họ sau ngày 01/01/2009. Bởi lẽ khi năng lực cạnh tranh của những doanh nghiệp này được củng cố thì việc thu hút đầu tư nước ngoài không còn bị phản đối gay gắt, việc sử dụng nguồn vốn FDI cũng hiệu quả hơn. Hỗ trợ các doanh nghiệp này, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp sau:
Thứ nhất, công bố thông tin về mở cửa thị trường, tự do hóa
thương mại
Nhà nước có vai trò chủ đạo và tích cực trong việc nâng cao nhận thức và hiểu biết vấn đề pháp lý, lộ trình thực hiện các cam kết, lợi ích và thách thức khi mở cửa thị trường để các doanh nghiệp phân phối và các hộ gia đình kinh doanh nhỏ lẻ chủ động đổi mới và thích ứng tốt với tình hình thị trường bằng các biện pháp cụ thể như: