khác với tư cách là bên vay, theo đó, tổ chức tín dụng cho vay chuyển cho bên vay một khoản tiền nhất định, khi đến hạn, bên vay phải trả gốc vay cùng với khoản tiền lãi được xác định theo lãi suất mà các bên đã thỏa thuận” [32, tr.17 -18].
Về hình thức, khác với hợp đồng dân sự thông thường (có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng), hợp đồng tín dụng ngân hàng phải là sự thỏa thuận bằng văn bản, theo đó NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chuyển giao vốn cho bên vay theo số lượng, thời gian, mục đích sử dụng nhất định với điều kiện có hoàn trả gốc và lãi.
Qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về hoạt động cho vay của một số nước trên thế giới và Việt Nam nêu trên, có thể nhận định rằng mặc dù còn sự khác biệt nhưng pháp luật của các nước trên thế giới đều có chung quy định NHTM có vốn đầu tư nước ngoài được phép cho vay vốn tín dụng ngân hàng (một hình thức cấp tín dụng), theo đó NHTM có vốn đầu tư nước ngoài (bên cho vay) giao cho khách hàng (bên vay) một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong thời hạn nhất định. Hoạt động này về nguyên tắc phải tuân theo một khuôn khổ pháp lý nhất định bao gồm các quy tắc pháp lý do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận - gọi là pháp luật cho vay của NHTM nói chung và NHTM có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng.
2.2.2.3. Thu hồi nợ vay trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài
Thu hồi nợ vay là công đoạn cuối cùng của quá trình cho vay và giữ vai trò quyết định đến hiệu quả kinh doanh cho vay vốn của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài. Khi đến kỳ hạn trả nợ mà bên vay không chủ động trả nợ, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài gửi thông báo nợ đến hạn cho khách hàng biết (số nợ đến hạn phải trả, thời gian đến hạn) và yêu cầu khách hàng phải thu xếp nguồn trả nợ cho bên cho vay. Trường hợp khách hàng có đơn đề nghị NHTM có vốn đầu tư nước ngoài cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì NHTM có vốn đầu tư nước ngoài xem xét, quyết định trên cơ sở quy định của pháp luật và quy định nội bộ của mình. Việc NHTM có vốn đầu tư nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng không phải là nghĩa vụ của bên cho vay mà chỉ là sự chia sẻ khó khăn với khách hàng, giúp khách hàng vượt qua khó
khăn để tiếp tục sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, xét cho cùng, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài cũng là một chủ thể kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu lợi nhuận. Do đó, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài có tồn tại và hoạt động hiệu quả được hay không cần có các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vốn để cho vay bằng nguồn vốn huy động. Vì vậy, trong phạm vi khả năng tài chính của mình và trên cơ sở quy định của pháp luật, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá, quyết định việc cơ cấu thời hạn trả nợ đối với từng khách hàng cụ thể. Nếu khách hàng không trả được nợ đúng kỳ hạn nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và được NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá có khả năng trả nợ trong các kỳ tiếp theo thì NHTM có vốn đầu tư nước ngoài có thể quyết định điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay. Thời gian điều chỉnh kỳ hạn trả nợ (kéo dài thời hạn trả nợ) được xác định theo dòng tiền, nguồn trả nợ và thời gian thu hồi vốn của khách hàng. Đối với kỳ hạn trả nợ gốc cuối cùng thì NHTM có vốn đầu tư nước ngoài không áp dụng biện pháp điều chỉnh kỳ hạn trả nợ vì nó làm thay đổi thời hạn cho vay, không phản ánh đúng bản chất của việc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ. Trường hợp khách hàng không trả được nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay đúng thời hạn cho vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và được NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đánh giá có khả năng trả nợ trong một khoảng thời gian nhất định sau thời hạn cho vay, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài có thể quyết định gia hạn với thời hạn phù hợp với nguồn trả nợ của khách hàng. Ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, pháp luật hiện hành không quy định về thời gian gia hạn nợ vay, nên các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài tự hướng dẫn nghiệp vụ này. Hiện nay, các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở hầu hết các nước đều quy định thời gian gia hạn đối với khoản vay ngắn hạn là không quá 12 tháng và khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng 1/2 thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Số lần điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và số lần gia hạn nợ đối với một khoản vay không được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật mà do các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài tự quy định. Khi khoản nợ được NHTM có vốn đầu tư nước ngoài quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ, toàn bộ số dư nợ vay gốc của khoản nợ đó được coi là nợ quá hạn và phân loại vào các nhóm nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 theo quy định của pháp luật về phân loại nợ. Tuy
nhiên, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài chỉ áp dụng lãi suất nợ quá hạn (tối đa bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng) đối với phần dư nợ gốc của kỳ hạn mà khách hàng thực tế không trả đúng hạn; đối với phần dư nợ gốc chưa đến kỳ hạn trả nợ mà phải chuyển sang nợ quá hạn thì NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam vẫn áp dụng lãi suất cho vay trong hạn như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Về Ngân Hàng Thương Mại Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài
- Đặc Điểm Của Ngân Hàng Thương Mại Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài
- Khái Quát Pháp Luật Về Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài
- Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Trên Thế Giới Và Thông Lệ Quốc Tế Quy Định Về Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài
- Khái Quát Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Về Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Ở Việt Nam
- Chủ Thể Tham Gia Quan Hệ Cho Vay Và Điều Kiện Vay Vốn Của Ngân Hàng Thương Mại Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn và không được NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đồng ý cơ cấu lại thời hạn trả nợ, toàn bộ khoản nợ được chuyển sang nợ quá hạn và NHTM có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ. Các biện pháp xử lý, thu hồi nợ vay cụ thể được nêu chi tiết tại mục 3.5 Chương 3 luận án này.
2.2.2.4. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, tương tự như các hợp đồng thương mại khác, có thể có tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng tín dụng ngân hàng do hành vi vi phạm của một hoặc các bên tham gia hợp đồng. Đương nhiên, khi có hành vi vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng thì một bên thông báo cho bên kia biết để khắc phục hoặc sửa chữa và thương lượng, hòa giải. Trường hợp không thể tự giải quyết được với nhau bằng thương lượng, hòa giải thì tùy theo sự thỏa thuận của các bên, các bên có quyền yêu cầu cơ quan thứ ba có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó.
Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài, nên trình tự và thủ tục giải quyết tranh chấp này phải phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu việc thu hồi nợ thông qua biện pháp khởi kiện hiệu quả và nhanh chóng thì nó không những bảo đảm được quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng tín dụng ngân hàng mà còn hỗ trợ đáng kể cho việc phát triển và mở rộng hoạt động cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài.
Tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài thực chất là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được ký kết giữa
NHTM có vốn đầu tư nước ngoài với khách hàng. Tranh chấp phát sinh từ hoạt
động cho vay xuất hiện khi có dấu hiêu khách hàng vay v ốn của NHTM có vốn đầu
tư nước ngoài không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ quy định tại hợp đồng tín dụng. Tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay có thể là những xung đột, mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa bên cho vay và bên vay trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo.v.v..
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên, theo đó các bên có thể lựa chọn một hoặc một số trong các phương thức giải quyết tranh chấp sau:
- Phương thức thương lượng: Với phương thức này, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài có thể trao đổi, bàn bạc với khách hàng về các biện pháp xử lý, thu hồi nợ để thống nhất việc giải quyết các vướng mắc, mâu thuẫn, qua đó giúp bên cho vay thu hồi nợ phát sinh từ hợp đồng tín dụng đã ký kết với khách hàng.
- Phương thức hoà giải: Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên thông qua một người thứ ba gọi là hoà giải viên. Hoà giải viên được NHTM có vốn đầu tư nước ngoài và khách hàng lựa chọn để tạo điều kiện giúp các bên đạt được giải pháp điều hoà lợi ích, giúp xử lý những mâu thuẫn, bất đồng đã phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
- Phương thức trọng tài: Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với các quy định của pháp luật. Để tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay được giải quyết bằng phương thức trọng tài, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài và khách hàng phải thỏa thuận giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay bằng trọng tài phù hợp với quy định của pháp luật và xác định trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.
- Phương thức Toà án: Giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Toà án thường là biện pháp cuối cùng của các bên tham gia hợp đồng tín dụng. Nếu như việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải và trọng tài mang đặc điểm tôn trọng quyền thỏa thuận hay ý chí của các bên để đưa ra phán quyết thì đặc trưng
cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực Nhà nước để Tòa án đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế.
Một cách khái quát, về phương diện lý thuyết, ngoài các quy định về nguyên tắc cho vay, có thể hình dung cấu trúc pháp luật về cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các bộ phận cấu thành cơ bản sau đây:
- Các quy định về chủ thể tham gia quan hệ cho vay giữa NHTM có vốn đầu tư nước ngoài với khách hàng vay vốn;
- Các quy định về thủ tục cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài (Quy trình cho vay);
- Các quy định về hợp đồng tín dụng giữa NHTM có vốn đầu tư nước ngoài với khách hàng vay vốn;
- Các quy định về thu hồi nợ vay trong hoạt động cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài;
- Các quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại có vốn đầu tư nước ngoài
Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến pháp luật về cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm:
2.2.3.1. Yếu tố quản lý Nhà nước (vì mục tiêu bảo đảm an toàn của hệ thống ngân hàng và an toàn cho trật tự kinh tế). Pháp luật về cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài quy định rõ ràng vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài. Cho nên, các cơ quan quản lý Nhà nước phải không ngừng nâng cao trách nhiệm của mình trong việc xây dựng, ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cấp và thu hồi Giấy phép hoạt động, thanh tra và kiểm tra hoạt động của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật về cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài còn quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn; giới hạn cấp tín dụng áp dụng cho tất cả các hình thức cấp tín
dụng; quyền và trách nhiệm của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở các quy định của pháp luật về cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng (ngân hàng trung ương/NHNN, cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng …) thực hiện việc thanh tra, kiểm tra trực tiếp đối với các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài theo định kỳ hoặc đột xuất. Thực tế, công tác thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng chủ yếu tập trung vào việc kiểm tra, đánh giá sự tuân thủ của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đối với các quy định của pháp luật. Căn cứ kết quả thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng yêu cầu các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài nhanh chóng sửa chữa, khắc phục các tồn tại, vi phạm và phải nâng cao vai trò quản lý, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn các vi phạm, tồn tại đó nhằm giảm thiểu rủi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng cũng thực hiện việc giám sát hoạt động của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài thông qua hệ thống thông tin báo cáo. Nội dung giám sát chủ yếu theo dõi việc thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài, chất lượng tài sản, các nguồn có khả năng sinh lợi … Thông qua việc giám sát, cơ quan quản lý nhà nước về ngân hàng yêu cầu các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện biện pháp bảo đảm duy trì các tỷ lệ an toàn trong hoạt động, nâng cao chất lượng tài sản Có.
Trước đây, trong nhiều năm liền, Việt Nam không cho phép NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nhận thế chấp quyền sử dụng đất hoặc Việt Nam chỉ cho NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo một tỷ lệ nhất định được quy định trong Giấy phép hoạt động. Các quy định này tạo ra sự phân biệt đối xử giữa NHTM trong nước và NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, trái với thông lệ quốc tế. Ở thời điểm đó, Việt Nam chưa thể dỡ bỏ ngay hoàn toàn những quy định khác biệt nói trên để tạo cơ sở pháp lý cho các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động bình đẳng với các NHTM trong nước vì trình độ, năng lực quản lý của các cơ quan chức năng, cơ chế và chính sách của
nước ta chưa thay đổi kịp để kiểm soát, quản lý có hiệu quả đối với các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, các NHTM trong nước cần có thời gian chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hoạt động theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động đó. Chẳng hạn, cho đến nay pháp luật Việt Nam vẫn chưa cho phép cho vay bằng ngoại tệ theo lãi suất thỏa thuận, chưa áp dụng tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo thông lệ quốc tế, chưa bắt buộc tất cả các NHTM phải minh bạch, công khai báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán quốc tế độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt Nam (trừ các NHTM là công ty đại chúng hoặc có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán…).
2.2.3.2. Yếu tố lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Sự xuất hiện của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng quan trọng đến việc phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế, quốc tế. Trước hết, sự xuất hiện của các NHTM có vốn đầu tư nước ngoài góp phần tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, khẳng định tính đúng đắn của chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và pháp luật của quốc gia. Ngày nay, khi đầu tư vào một nước cụ thể, vấn đề đầu tiên mà các nhà đầu tư nước ngoài thường quan tâm là nước đó có hệ thống ngân hàng đủ mạnh không và hỗ trợ gì (các dịch vụ được cung cấp, quy trình và thủ tục thực hiện…) nếu họ đầu tư vào quốc gia đó, ngân hàng của nước họ đã được thành lập và hoạt động tại đây chưa. Môi trường đầu tư hấp dẫn sẽ thu hút được nguồn vốn ngoại tệ từ nước ngoài, đáp ứng một phần nhu cầu vốn phát triển kinh tế trong nước. Sự hiện diện của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài đánh dấu một bước khởi đầu của thời kỳ tăng cường hợp tác kinh tế - quốc tế; tăng cường hợp tác kinh tế đối ngoại.
Ở Việt Nam, pháp luật về cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ra đời tạo hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Từ khi có pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, hoạt động cho vay của các ngân hàng này ngày
càng phát triển, góp phần làm phong phú thị trường tài chính tiền tệ, từng bước thúc đẩy quá trình đổi mới và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng. Trên nguyên tắc có quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình, NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được chủ động cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật và Giấy phép hoạt động. Các cá nhân, tổ chức và nhà đầu tư tại Việt Nam có nhiều cơ hội được tiếp cận vốn vay ngân hàng, thực hiện các hoạt động đầu tư, qua đó đóng góp một phần vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Trên cơ sở phát hiện những bất cập, hạn chế hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung (pháp luật) về cho vay của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cần điều chỉnh căn bản các hành vi trong các quan hệ lợi ích, quan hệ kinh doanh giữa các NHTM thuộc mọi thành phần kinh tế với các đối tác và khách hàng trong môi trường chung mang tính quốc tế và phù hợp với lộ trình phát triển tích cực của nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường. Ví dụ, trong thời gian qua, việc hạn chế hoặc cấm TCTD cho vay mới để trả nợ cũ (hay còn gọi là đảo nợ) chưa được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật, nên một số TCTD đã lợi dụng để che dấu chất lượng tín dụng tại đơn vị mình. Vì vậy, khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế Quy chế cho vay, NHNN cần quy định rõ nhu cầu vốn không được cho vay, trong đó cho vay để trả nợ các khoản vay thuộc nhóm nợ xấu và/hoặc nợ đến hạn và/hoặc nợ quá hạn tại các ngân hàng khác hoặc tại chính ngân hàng cho vay.
2.2.3.3. Yếu tố văn hóa kinh doanh. Xây dựng văn hoá kinh doanh vừa là mục tiêu, vừa là thách thức đối với hầu hết các NHTM trong bối cảnh toàn cầu hóa. Khi hội nhập, văn hoá kinh doanh của từng NHTM bị tác động, ảnh hưởng và trở thành thách thức, nên mọi NHTM phải có biện pháp, cách thức thay đổi phù hợp để thích nghi với các quy trình kinh doanh mới, được chuẩn hoá với sự góp mặt của NHTM có vốn đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO và kinh doanh trong môi trường mở cửa, các NHTM phải tự vượt qua chính mình, phải hiểu pháp luật và tập quán kinh doanh thương mại quốc tế cũng như tập quán trong nước nơi mình có kế hoạch kinh doanh, biết liên kết với các đối tác có uy tín và đáng tin cậy để hợp tác kinh